Cúc hoa tửu

Tác dụng của Cúc hoa

Theo Đông y Cúc nói chung tính vị ngọt cay, vào 3 kinh phế can thận; có tác dụng dưỡng âm, ích can, tán phong thấp, thanh đầu mục, giáng hoả, giải độc. Cúc trắng vị ngọt nhiều hơn đắng, tính hơi hàn, thiên về khí phế. Cúc vàng vị cay đắng nhiều hơn, ngọt tính, hơi ôn thiên về can huyết.

Dược tính của Cúc hoa là do hấp thụ được “khí thu”, “sương thu”, “tiết thu” mới có, do đó Cúc hoa để làm thuốc không thể trồng hái tuỳ tiện vào mùa khác được, cũng không thể thay thế các vị Thu cúc bằng các loại dược Cúc khác.

Rượu Cúc Hoa:

Dùng hoa Cúc tháng 8,9, nấu lấy nước cốt để nấu cơm nếp làm rượu. Cất rượu vào bình kín dùng dần; muốn tốt hơn thì trong nước nấu cơm nên gia thêm nước cốt Sinh điạ, Đương quy, Câu kỷ tử, và một số vị thuốc bổ khác thì công hiệu càng cao. Chữa được những chứng đầu phong, đau nhức, chóng mặt tối sầm; nó còn có thể làm cho đầu óc sáng suốt, mắt tinh, tai tỏ, chữa các chứng tê bại và một số chứng bệnh của tuổi già: thân thể gày còm ốm yếu, chảy nước mắt sống, nhiều dử, mắt kéo màng rộng; nó còn làm cho sức lực dồi dào, ăn ngon ngủ dễ, chống lại bệnh xơ vữa động mạch, các chứng bệnh mạch vành.

Rượu Tứ quý Cúc hoa:

Được chế biến công phu với nguyên liệu được thu hái trong cả một năm: Ngọn cúc mùa xuân, lá cúc mùa hạ, hoa cúc mùa thu và rễ cúc mùa đông. Các vị trên được thu hái vào các thời điểm trong cả 4 mùa, phơi khô trong bóng râm, tránh nắng trực tiếp, không được hong, sấy quá nóng (Cúc kỵ lửa) và khi đủ vị thì sắc lấy nước, dùng nước đó để nấu rượu như rượu Cúc hoa.

Sơ lược về rượu vang

Rượu vang (từ tiếng Pháp vin) là một loại thức uống có cồn được lên men từ nước nho. Rượu vang đỏ thường được lên men từ nước ép và vỏ quả nho, còn rượu vang trắng được lên men chỉ từ nước nho.
Nước từ các hoa quả khác có thể được lên men tạo thành rượu, nhưng theo luật nhiều nước, từ "rượu vang" (ở ngôn ngữ tương ứng) cho mục đích thương mại chỉ được sử dụng cho rượu lên men từ nho.

Vài bài rượu độc vị

❖ Rượu hoàng tinh:
Hoàng tinh 20 g, rượu trắng 500 ml.Hoàng tinh rửa sạch, thái phiến, cho vào túi vải buộc kín rồi thả ngâm trong rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.

❖ Rượu vừng đen:
Vừng đen 50 g, rượu trắng 500 ml.
Vừng đen đãi sạch, để khô rồi ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Bồi bổ can thận, nhuận dưỡng tỳ phế, nâng cao sức khỏe và chống lão hóa; thích hợp cho những người bị chứng can thận phế âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng hay đau đầu, hoa mắt chóng mặt, lưng đau gối mỏi, râu tóc bạc sớm, ho khan ít đờm, đại tiện táo kết. Trường hợp đại tiện lỏng loãng không nên dùng.
❖ Rượu liên tử:
Hạt sen 50 g, rượu trắng 500 ml.
Hạt sen bỏ vỏ và tâm, đập vụn rồi đem ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Dưỡng tâm an thần, kiện tỳ chỉ tả, ích thận chỉ di; thích hợp cho những người bị mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, di tinh, đái dầm, xuất tinh sớm, phụ nữ bị khí hư, đi lỏng do tỳ vị hư yếu. Trường hợp đại tiện táo kết không nên dùng.
❖ Rượu nhân sâm kỷ tử:
Nhân sâm 10 g, Kỷ tử 20 g, rượu trắng 500 ml.
Nhân sâm thái phiến, kỷ tử rửa sạch, cho vào bình kín ngâm với rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Đại bổ nguyên khí, dưỡng can và làm sáng mắt; thích hợp cho những người bị chứng khí hư với những biểu hiện cụ thể như khó thở, ngại nói, dễ đổ mồ hôi (phế khí hư); chán ăn, chậm tiêu, da nhợt, tay chân teo nhẽo, sa dạ dày, sa trực tràng (tỳ khí hư); lưng đau gối mỏi, tiểu tiện nhiều lần về đêm, khả năng tình dục sút kém (thận khí hư); hay hồi hộp đánh trống ngực, mất ngủ, môi nhợt (tâm khí hư)...
❖ Rượu hà thủ ô:
Hà thủ ô 150 g, rượu trắng 500 ml.
Hà thủ ô rửa sạch, thái vụn, ngâm với rượu trong bình kín, sau 15-20 ngày có thể dùng được.
Công dụng: Bổ thận ích tinh, tư âm dưỡng huyết, chống lão hóa; thích hợp cho người bị chứng can thận bất túc, biểu hiện bằng các dấu hiệu đầu choáng, tai ù, mất ngủ, hay quên, râu tóc bạc sớm, di tinh, liệt dương (trong y học hiện đại là các bệnh suy nhược thần kinh, thiếu máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, táo bón kinh niên...).
❖ Rượu dâu:
Quả dâu chín 200 g, rượu trắng 500 ml.
Hai thứ ngâm trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Thanh nhiệt, nhuận phế, tư âm, dưỡng huyết; thích hợp cho những người âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng môi khô miệng khát, có cảm giác hâm hấp sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng, ho khan, hay ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.
* Kinh nghiệm thực tế: Có thể ngâm dâu với đường chế thành siro dâu rồi pha rượu cũng được và ngon hơn nhiều.

❖ Rượu tây dương sâm:
Tây dương sâm 50 g, rượu trắng 500 ml.
Tây dương sâm thái phiến, ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Bổ khí dưỡng âm, thanh nhiệt; thích hợp cho những người khí âm lưỡng hư, biểu hiện bằng các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, miệng khô, họng khô, ho khan, hay có cảm giác hơi sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm. Trường hợp đau bụng và đi lỏng do lạnh không nên dùng.

Lưu ý: nên dùng rượu trắng có nồng độ từ 30-35%, nồng độ rượu cao làm cháy tinh dầu trong các vị thuốc, gây mùi khét khó uống và giảm hiểu quả rất nhiều.