Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi

Đức Phật nhấn mạnh hai điểm, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy y tựa chính mình, không y tựa một ai khác. Hãy lấy chính pháp làm ngọn đèn, hãy lấy chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác.

Một lần, khi đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), đức Phật đã tuyên bố Lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của Ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Ðạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Ðạo sư viên tịch: -- Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chính pháp làm ngọn đèn, dùng chính pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác ... Này Ananda, ở đời, vị Tỷ kheo trú quán trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Trú quán thọ trên các cảm thọ ... trú quán tâm trên các tâm, trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy này Ananda, Tỷ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chính pháp làm ngọn đèn, dùng chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác. Này Ananda, những ai, hiện nay hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chính pháp làm ngọn đèn, dùng chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi. Thắp lên ngọn đèn trí huệỞ đây vì chữ Dipa vừa có nghĩa là ngọn đèn, vừa có nghĩa là hòn đảo nên có thể dịch: Tự mình thắp đuốc lên mà đi, hay Tự mình xây dựng hòn đảo cho chính mình. Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình. Trong lời dạy đặc biệt quan trọng và hy hữu này, đức Phật nhấn mạnh hai điểm. Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy y tựa chính mình, không y tựa một ai khác. Hãy lấy chính pháp làm ngọn đèn, hãy lấy chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác. Chính hai quan điểm này có thể được xem là phản ảnh trung thực đời sống tìm đạo, hành đạo, chứng đạo của Thế Tôn dựa trên kinh nghiệm bản thân của Ngài và cũng gói ghém trọn vẹn tất cả giáo pháp Ngài dạy trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sinh của Ngài để truyền lại cho hàng đệ tử. Thật vậy, chúng ta thấy rõ, trong hơn sáu năm tầm đạo, hành đạo và chứng đạo, Thế Tôn đã tự mình dùng nỗ lực cá nhân, đã tự mình tự lực tìm đạo, hỏi đạo với hai vị đạo sư ngoại đạo thời danh là Alara Kalama và Uddaka Ràmaputta, đã tự mình tự lực hành trì khổ hạnh, đã tự mình tự lực hành thiền, và cũng tự mình tự lực phát triển trí tuệ và cuối cùng thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề, thành bậc Chính Ðẳng Chính Giác. Ngài không nhờ một thần lực nào, không phải là hiện thân của một đấng thiêng liêng nào, không phải là hóa thân của một đấng tối cao nào. Ngài chỉ là một người, với sức mạnh thể lực và trí lực của con người, đã tự mình tìm đạo và tìm đạo thành công, đã tự mình hành đạo và hành đạo có kết quả, đã tự mình chứng đạo và chứng đạo hoàn toàn viên mãn, như chúng ta đã thấy rõ trong đời sống của Ngài, nếu chúng ta gạt bỏ qua một bên những thêm thắt về sau để thần thánh hóa đời sống của Ngài. Ngài đã tự lực tìm đạo và học đạo và tự diễn tả như sau: Không phải chỉ Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ Alara Kalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Alara Kalama có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alara Kalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ Alara Kalama có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta phải cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama, sau khi tự tu, tự chứng, tự đạt đã tuyên bố. Rồi này các Tỷ kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú (Trung I, 164b). Về sau tu khổ hạnh, Ngài cũng tự mình tự hành trì khổ hạnh như Ngài đã tự diễn tả: Vì Ta ăn quá ít, chân tay Ta đã trở thành như những cọng cỏ, hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, nên bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi bóng. Vì Ta ăn quá ít, xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu ... (Trung I, 80). Ðức Phật sau khi hành trì khổ hạnh không có kết quả. Ngài cương quyết từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu tự mình hành thiền, chứng được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, phát triển tuệ trí, chứng được túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh, biết như thật khổ, biết như thật các lậu hoặc, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa (Trung I, 248). Như vậy, cũng với kinh nghiệm bản thân, tự mình từ bỏ khổ hạnh, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ, đức Phật chứng quả Chính Ðẳng Chính Giác. Ðối với bậc Ðạo sư đã dựa vào tự lực để tầm đạo, học đạo và chứng đạo, nên trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, lời dạy chủ yếu của Ngài cho các đệ tử cũng là lời dạy tự lực tự tri: Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chính pháp làm ngọn đèn, dùng chính pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác. Trước hết, đức Phật xác nhận cầu xin và ước vọng không có lợi gì, không những trên con đường thực hành chính pháp mà còn cả vấn đề ước vọng thế gian.
Kinh Tương Ưng, Tập IV, trang 313 nêu rõ:
  Nếu có người làm mười ác hạnh, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu xin cầu khẩn chấp tay, mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú, thiện giới. Sự cầu khẩn như vậy vô ích, vì người ấy làm mười ác hạnh sẽ rơi vào địa ngục ví như một người quăng một tảng đá vào hồ nước, rồi một số đông đảo quần chúng đến cầu xin, cầu khẩn, chấp tay cầu rằng tảng đá ấy sẽ được nổi lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, vì tảng đá ấy, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ, như lời cầu xin của quần chúng ấy. Trái lại, một người từ bỏ mười ác hạnh, làm mười hạnh lành, nếu có một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn, chấp tay, cầu rằng người ấy sẽ bị sinh vào địa ngục, đọa xứ, thời lời cầu xin ấy cũng không được thành tựu. Người ấy vẫn được sanh lên thiện thú, thiện giới, cõi người. Ví như một người nhận chìm một ghè dầu vào trong hồ nước rồi đập bể ghè dầu ấy, thời số dầu ấy sẽ nổi lên trên mặt nước. Dẫu cho có một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn, chấp tay, cầu rằng số dầu ấy chìm xuống đáy nước. Lời cầu xin ấy tất nhiên không có kết quả, số dầu ấy vẫn nổi lên trên mặt nước. Như vậy, có cầu khẩn, có cầu xin cũng không có lợi ích gì.
Kinh Tăng Chi IIIA, trang 123 xác chứng thêm sự vô ích của cầu xin và cầu khẩn.
 Một vị Tỷ kheo không chú tâm trong sự tu tập, khởi lên ước muốn được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ, ước muốn ấy nhất định không được toại nguyện. Như con gà mái có tám, mười hay mười hai trứng gà, nó ấp ngồi không đúng cách, ấp nóng không đúng cách, ấp dưỡng không đúng cách, thời dầu cho con gà ấy có khởi lên ý muốn mong rằng các con gà con của nó, với chân, với móng, với miệng, làm bể vỏ trứng và thoát ra một cách an toàn, con gà mái ấy cũng không được toại nguyện. Vì cớ sao? Vì con gà mái không ấp ngồi một cách đúng đắn, không ấp nóng một cách đúng đắn, không ấp dưỡng một cách đúng đắn. Ngược lại, một Tỷ kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu không khởi lên ước muốn: Mong rằng tâm Ta được giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ, tuy vậy tâm vị ấy vẫn được giải thoát không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói rằng vị ấy có tu tập. Có tu tập gì? Có tu tập bốn niệm xứ, có tu tập bốn chính cần, có tu tập bốn như ý túc, có tu tập năm cần, có tu tập năm lực, có tu tập bảy giác chi, có tu tập Thánh đạo tám ngành. Ví như con gà mái, có tám, mười hay mười hai trứng. Nó ấp ngồi một cách đúng đắn, nó ấp nóng một cách đúng đắn. Dẫu con gà ấy không khởi lên ước muốn, mong rằng các con gà con của nó, với chân, với móng, với mỏ, làm bể vỏ trứng và thoát ra một cách an toàn, các con gà con của nó cũng phá vỏ trứng và thoát ra ngoài một cách an toàn. Như vậy, có ước nguyện hay không ước nguyện không thành vấn đề. Vấn đề chính là có hành động đúng đắn, đúng pháp để đưa đến kết quả mong muốn mà thôi. Một đoạn kinh nữa (Trung I, trang 303) càng nhấn mạnh sự vô ích của cầu xin. Nếu hành Phạm hạnh không chính đáng, không làm sao đạt được quả vị. Hành Phạm hạnh không chính đáng ở đây có nghĩa là theo tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Vì cớ sao? Vì đây không phải phương pháp để đạt được quả vị. Rồi Ðức Phật ví dụ người đi tìm dầu, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước ép cát cho ra dầu, thời dẫu người ấy có ước nguyện tìm cho ra dầu cũng không được toại nguyện. Vì cớ sao? Vì đây không phải là phương pháp tìm ra dầu. Ðức Phật dùng một ví dụ nữa, ý nghĩa hơn, là một người đi tìm sữa, đến một con bò cái, lại nắm lấy cái sừng con bò cái mà vắt sữa, thời dẫu có ước nguyện hay không ước nguyện, nó cũng không lấy được sữa. Trái lại, nếu có vị sa môn hay Bà la môn nào, có chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định, dù có ước nguyện hay không ước nguyện, hành Phạm hạnh sẽ đạt được quả vị. Vì cớ sao? Vì đây là phương pháp đạt được quả vị. Ví như một người đi tìm dầu, sau khi để những hột dầu vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép các hột dầu cho ra dầu. Dù người ấy có ước nguyện hay không ước nguyện, cũng sẽ lấy được dầu. Vì cớ sao? Vì biết phương pháp làm ra dầu. Cũng ví như người đi tìm sữa, đến con bò cái, vắt sữa từ nơi vú con bò mới sanh con, thời dù có ước nguyện hay không ước nguyện cũng tìm ra được sữa. Ðối với sự việc ở đời cũng vậy, không phải do cầu xin, do nhân ước nguyện mà thành tựu. Ðã là người, thường hay mong ước được năm điều khả lạc, khó tìm được ở đời như: tuổi thọ, dung sắc, an lạc, tiếng đồn tốt, và được sanh cõi trời. Trong Kinh Khả Lạc (Tăng IIB, trang 74), đức Phật nêu rõ năm điều pháp này không do nhân cầu xin, không do nhân ước vọng mà được, vì nếu có do nhân cầu xin, do nhân ước vọng mà có được, thời ở đời này còn có ai héo mòn vì một lẽ gì, khi mà chỉ cầu xin là được toại nguyện. Ðức Phật nói rất rõ: Muốn có thọ mạng không thể cầu xin thọ mạng hay tán thán thọ mạng để làm nhân đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng cần phải thực hành con đường đưa đến thọ mạng, đưa đến dung sắc, đưa đến an lạc, đưa đến tiếng đồn tốt, đưa đến sanh thiên, vị ấy mới thành tựu được, mới đạt được năm điều khả lạc mà mình ước muốn ở đời. Trong định nghĩa của Nghiệp và vai trò của nghiệp đức Phật tuyên bố rất rõ chữ Nghiệp (Karma) có nghĩa là hành động, từ động từ Karoti nghĩa là làm, là hành động về thân, về lời và về ý, nhưng hành động ấy phải là hành động có tư tâm sở, tức là một hành động tự ý mình làm, tự mình quyết định làm, không ai xúi giục, không do ai sai bảo. Vì đã là hành động tự mình ý thức làm, tự mình quyết định làm, nên đức Phật xác định chúng ta là chủ nhân của Nghiệp (Kammassako) chúng ta là thừa tự của Nghiệp (Kamma-dàyadà), chúng ta vừa chịu trách nhiệm những hành động của chúng ta, chúng ta vừa tự mình chịu kết quả các hành động của chúng ta làm. Kinh Pháp Cú nêu rõ: Ðiều ác tự mình làm, Tự mình sanh, mình tạo,Nghiền nát kẻ ngu si,Như kim cương ngọc quý. (Pháp Cú 161) Một câu kệ nữa xác định rõ ràng hơn: Tự mình, điều ác làm, Tự mình làm nhiễm ô,Tự mình ác không làm,Tự mình làm thanh tịnh,Tịnh, không tịnh, tự mình,Không ai thanh tịnh ai. (Pháp Cú 165) Tự mình chỉ trích mình, Tự mình dò xét mình, Tỷ kheo tự phòng hộ, Chính niệm trú an lạc. (Pháp Cú 379) Trong một bài kinh rất có danh tiếng, Kinh Kalamasutta (Tăng I, 213-216), đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài hãy tin ở nơi mình, không tin một ai khác, tin ở nơi khả năng phán xét thiện ác của mình, chớ có tin vào một phương pháp nào khác: -- Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Ðạo Sư của mình. Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: 'Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đết bất hạnh khổ đau. Thời này Kalama, hãy từ bỏ chúng' ... Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết như sau: 'Các pháp này là thiện. Các pháp này là không có tội. Các pháp này, được người có trí tán thán. Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc, thời này các Kalama, hãy chứng đạt và an trú'.... Khi đã ý thức được khả năng của mình có thể phân biệt thiện ác, thời Ðức Phật dạy hãy nên tự y chỉ mình, không y chỉ một ai khác, như các bài kệ sau nêu rõ: Vị du sĩ không tựa,Không y chỉ một ai,Không làm thành thương yêu, Không tác thành ghét bỏ.Do vậy, trong sầu than,Trong xan tham keo kiệt,Như nước trên lá cây,Không dính ướt làm nhơ. (Kinh Tập, câu 811) Ai không tìm lõi câyÐối với các sanh y,Có thể nhiếp phục tham,Ðối với các chấp thủ Vị ấy không y chỉKhông để ai dắt dẫn,Tỷ kheo ấy chơn chính,Du hành ở trên đời. (Kinh Tập câu 364) Nhưng đức Phật có sự thận trọng. Dẫu cho Ngài đã được giải thoát và giác ngộ hơn Ngài, nhưng Ngài vẫn thấy là Ngài cần phải y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn: Vậy Ta hãy đảnh lễ, cung kính và sống y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn, với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn ... định uẩn ... tuệ uẩn ... giải thoát uẩn chưa được đầy đủ ... nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác Ma và Phạm Thiên, giữa quần chúng Sa môn và Bà la môn, chư Thiên và loài người, không có một Sa môn hay Bà la môn nào khác, với giới, với định, với tuệ và với giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có thể cung kính, đảnh lễ và sống y chỉ. Rồi này các Tỷ kheo, Ta suy nghĩ như sau: Với Pháp mà Ta đã chân chính giác ngộ, Ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy”.. Như vậy Ðức Phật với tâm khiêm tốn, muốn tìm một Sa môn hay Bà la môn để nương tựa y chỉ nơi chính pháp. Ðó là lý do vì sao Ðức Phật lại dạy các Tỷ kheo Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (attà-dìpàviharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attà-saranà), chớ y tựa một cái gì khác. Dùng Chính pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác. Thái độ này của đức Phật giải thích vì sao Ðức Phật khuyên tôn giả Ananda chớ có sầu muộn sau khi đức Phật nhập diệt, vì các đệ tử của đức Phật luôn luôn có chính pháp làm chỗ y chỉ, có chính pháp làm chỗ nương tựa. Trong Tương Ưng III, 51, đức Phật xác định lời khuyên một lần nữa cho các đệ tử của mình lấy chính pháp làm hòn đảo, lấy chính pháp làm chỗ nương tựa: Hãy sống, tự mìn làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa với chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác. Trong kinh Gopaka Moggallàna, Trung III, trang 111, chúng ta sẽ thấy các đệ tử của đức Phật sau khi Ngài nhập diệt, đã xử sự đúng như lời Ngài dạy. Bà la môn Gopaka Moggallàna hỏi tôn giả Ananda: Thưa Tôn giả, có một vị Tỷ kheo nào được Sa môn Gotama sắp đặt: Vị này, sau khi Ta diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho các ngươi và các ngươi sẽ y chỉ vị này?. Tôn giả Ananda trả lời: Này Bà la môn không có một vị Tỷ kheo nào được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A la hán, Chính Ðẳng Chính Giác sắp đặt: Vị này sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các ngươi', và chúng tôi sẽ y chỉ vị này. Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ kheo Trưởng Lão sắp đặt là vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi sẽ y chỉ vị này?. Tôn giả Ananda trả lời: Không có một vị Tỷ kheo nào, này Bà la môn, được chúng tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ kheo Trưởng lão sắp đặt: 'Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi', và chúng tôi sẽ y chỉ vị nàyVà như vậy là (quý vị) không có chỗ nương tựa. Thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân gì quý vị có thể hòa hợp?Này Bà la môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Này Bà la môn, chúng tôi có chỗ nương tựa. Và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi. Lấy Chính pháp làm chỗ nương tựa, đó cũng chính là lời Phật dạy chúng ta.
(Tỳ kheo Thích Minh Châu)

Tôn giáo nào tốt nhất?

(Đây là một mẩu đối thoại ngắn giữa thần học gia người Brazil, Leonardo Boff, và Đức Đạt Lai Lạt Ma).

Leonardo là một trong những người cải cách Thần học Giải phóng.
Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về tôn giáo và tự do có Đức Đại Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài, vừa tinh nghịch vừa tò mò:
“Thưa Ngài, tôn giáo nào tốt nhất?”
Tôi nghĩ ngài sẽ nói:“Phật giáo Tây Tạng” hoặc “Các tôn giáo phương đông, lâu đời hơn Kitô giáo nhiều”
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.
Ngài trả lời:
“Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất.
Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn.”
Để dấu sự bối rối của tôi trước một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi:
“Cái gì làm tôi tốt hơn?”
Ngài trả lời:
“Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.”
“Tôn giáo nào biến anh thành như vậy là tôn giáo tốt nhất.”
Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác:
“Anh bạn ơi, tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không.
Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng, và đối với thế giới.”
“Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta.”
“Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý. Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người.
Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.
Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.”
“Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy.
Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong muốn cho người khác.
Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh.
Đó là vấn đề lựa chọn.”

Cuối cùng ngài nói:

Hãy suy tư cẩn thận vì Tư Tưởng sẽ biến thành Lời Nói.
Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời Nói sẽ biến thành Hành Động.
Hãy hành xử cẩn thận vì Hành Động sẽ biến thành Thói quen.
Hãy chú trọng Thói Quen vì chúng hình thành Nhân Cách.
Hãy chú trọng Nhân Cách vì nó hình thành Số Mệnh,
và Số Mệnh của anh sẽ là Cuộc Đời của anh
và …
Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật.” 

(Nguồn: Sưu tầm)

Lễ Vu-lan

Vu lan (chữ Hán: 盂蘭; tiếng Phạn: ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo và phong tục Trung Hoa. Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán, và cũng trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Vào ngày này, mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.
Phóng đăng - một nghi thức trong lễ Vu-lan thường được thực hiện ở chùa ven sông
 Do xuất xứ Phật giáo, nên lễ Vu-lan thường được cúng với những mâm lễ sau:
 - Lễ Phật
 - Lễ Thần linh và Gia tiên
 - Thí thực chúng sinh

Cúng Phật:

Một mâm lễ chay hoặc thanh bông hoa quả hương nến... bày một mâm riêng, tyệt đối không đặt chung với ban Thần linh hay Gia tiên (có lễ mặn).
Nếu gia đình có thờ Phật thì đặt tại ban thờ, nếu không có thể lập một ban tạm cao bằng với ban Thần linh trong nhà, Tuy nhiên, để khỏi thất lễ, nên đến chùa lễ Phật.
Sau khi thắp hương và tỉnh Phật, nên tụng một khóa kinh Vu-lan.

Cúng Thần linh và Gia tiên:

Tùy theo điều kiện gia đình có thể cũng chay hoặc cúng mặn, khi khấn mời nên mời Thần linh (Các quan Kim niên Thái tuế Chí đức Tôn thần, Đương niên Hành khiển chư vị tôn thần, Ngũ Phương Yết đế, Tứ trực công tào, Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, Bản xứ Thần linh Thổ địa, Bản gia Táo quân chi thần...) trước rồi mời đến Gia tiên dòng tộc.

Thí thực chúng sinh

Một mâm cúng thí thực chúng sinh
Mâm cúng cô hồn thường có: quần áo chúng sinh gỡ ra từng món, rải xuống dưới mâm, một ít vàng tiền cũng làm như vậy, vài chén cháo trắng loãng, 1 đĩa muối, 1 đĩa gạo, 1 ít bỏng gạo và kẹo bánh các loại, ngô/khoai/sắn luộc rồi cắt thành khúc nhỏ v.v... 

Trên đây là những mâm lễ chủ yếu dùng trong lễ Vu-lan, có thể khấn nôm hoặc theo những bài văn khấn.

Cửu Diệu Tinh Quân

Cửu diệu tinh quân có nguồn gốc từ đạo Giáo, gồm 9 vị tinh quân, trong 7 vị có thực (Nhật, Nguyệt, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và 2 vị La Hầu (tiếng Phạn: Rahu) và Kế Đô (tiếng Phạn: Ketu) xuất phát từ Ấn độ giáo là hai điểm giao nhau với vòng Hoàng đạo của Mặt trăng (Moon node) giao điểm Bắc là La Hầu, giao điểm Nam là Kế Đô. La Hầu tượng trưng cho phần đầu của con Rắn Uragavagga đã nuốt chửng mặt trăng và bị thần Vishnu chém đứt đôi, Ketu chính là phần đuôi của con rắn.

Cách tính hạn

Hạn Cửu Diệu được tính theo vòng 9, cách tính đơn giản là lấy số tuổi (tính theo âm lịch) chia cho 9 và lấy số dư (dư 0 coi là 9) hoặc cộng hai số của tuổi đến khi tổng hai số nhỏ hơn 9 (ví dụ: 29 tuổi, ta có 2 + 9 = 11, 11 > 9 nên lại cộng tiếp 1 + 1 = 2, vậy hạn sẽ ở số 2) sau đó tra bảng sau để tìm ra sao hạn:




Lễ sao

Thái Dương:
Mỗi tháng cúng ngày 27, từ 21h00-đến 23h00, 12 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Đông
Bài vị (vàng): Nhật cung Thái Dương Thiên tử Tinh quân (日宫太阳天子星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Uất ly cung Đại Thánh đơn nguyên Hải Nhật Thái Dương Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Thái Dương

Thái Âm:

Mỗi tháng cúng ngày 26, từ 21h00-đến 23h00, 7 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Tây
Bài vị (vàng): Nguyệt cung Thái Âm Hoàng hậu Tinh quân (月宫太阴皇后星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Kết lâu cung Đại Thánh Tố diệu Nguyệt phủ Thái Âm Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Thái Âm

Thủy Diệu:

Mỗi tháng cúng ngày 21, từ 21h00-đến 23h00, 7 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Bắc
Bài vị (đen): Bắc phương Nhâm Quý Thủy đức Tinh quân (北方壬癸水德星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Kim nữ cung Đại Thánh Bắc phương Nhâm Quý Thuỷ Diệu Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Thủy Diệu

Mộc Đức:

Mỗi tháng cúng ngày 25, từ 21h00-đến 23h00, 20 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Đông
Bài vị (xanh): Đông phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh quân (东方甲乙木德星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Thanh vân cung Đại thánh Trùng quang triều nguyên Mộc Đức Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Mộc Đức

Vân Hán:

Mỗi tháng cúng ngày 29, từ 21h00-đến 23h00, 15 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Nam
Bài vị (đỏ): Nam phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh quân (南方丙丁火德星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Minh ly cung Đại thánh Nam phương Bính Đinh Hoả đức Vân Hán Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Vân Hán

Thổ Tú:

Mỗi tháng cúng ngày 19, từ 21h00-đến 23h00, 5 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Tây
Bài vị (vàng): Trung ương Mậu Kỷ Thổ Đức Tinh quân (中央戊己土德星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Hoàng trung cung Đại thánh Thổ địa Địa la Thổ đức Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Thổ Tú

Thái Bạch:

Mỗi tháng cúng ngày 15, từ 21h00-đến 23h00, 8 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Tây
Bài vị (trắng): Tây phương Canh Tân Kim đức Thái Bạch Tinh quân (西方庚辛金德星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Hạc linh cung Đại Thánh Kim đức Thái Bạch Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Thái Bạch

La Hầu:

Mỗi tháng cúng ngày 8, từ 21h00-đến 23h00, 9 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Bắc
Bài vị (vàng): Thiên cung Thần thủ La Hầu Tinh quân (天宫神首罗喉星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Hoàng phan cung Đại thánh Thần thủ La Hầu Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao La Hầu

Kế Đô:

Mỗi tháng cúng ngày 18, từ 21h00-đến 23h00, 21 ngọn đèn/nến theo đồ hình, hướng Tây
Bài vị (vàng): Thiên cung Thần vĩ Kế Đô Tinh quân (天官神尾计都星君)
Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Báo vĩ cung Đại Thánh Thần Vỹ Kế Đô Tinh quân vị tiền
Đồ hình sao Kế Đô

Bài khấn cơ bản:

Việt nam quốc ..... thành/tỉnh .....quận/huyện .... phường/xã(*)
..................... niên .... nguyệt .... nhật ..... thời(**)
Nhương chủ: (họ tên, tuổi) ngụ tại .......(*)
Cung thỉnh:
 - Hiệu thiên Kim quyết Ngọc hoàng thượng đế
 - Tả Nam tào Lục ty diên thọ tinh quân
 - Hữu Bắc đẩu Cửu hàm giải ách tinh quân
 - Trung thiên Tinh chủ Bắc cực Tử vi Tràng sinh đại đế
 - (***)
 - Nguyên thần bản mệnh chân quân
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc, lộc, thọ cho chúng con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Nhương chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Cẩn cáo!

(*) Địa chỉ, từ lớn xuống bé, dòng trên là nơi lập đàn, dòng dưới là địa chỉ của nhương chủ (người gặp hạn sao)
(**) Tháng Giêng khấn là Sơ nguyệt.
(***) Danh hiệu sao như trên đã nói

Táo quân

Ông Táo (Táo quân hay Thổ Công) là vị thần cai quản mọi hoạt động của gia chủ, ông là vị thần quyết định sự may, rủi, phúc họa của cả gia chủ, bên cạnh đó ông còn ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ, giữ bình yên cho gia đình gia chủ. Vì vậy tục cúng ông Táo mang ý nghĩa cầu mong cho sự ấm no, đầy đủ, sau đó mới đến ý nghĩa thờ "thần Bếp" chuyên cai quản việc bếp núc.
Ông Táo về trời sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Cá chép là phương tiện để ông Táo cưỡi về trời. Vào ngày này, sau khi cúng lễ xong, các gia đình đều cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao...thả. Bởi ngụ ý "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng", cá chép mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt khó, sự kiên trì và bền bỉ để đi tới thành công, mong muốn năm mới có sự thăng tiến, thay đổi tốt đẹp năm cũ.
Sự tích: 
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được người Việt đồng hóa với 3 ông đầu rau thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất.
Khác với Táo Quân của Trung Quốc (theo từng sách mà có tên gọi sự tích khác nhau), ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau:
Có hai vợ chồng ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, người chồng giận quá, đánh vợ. Người vợ bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ một người khác. Khi người chồng hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên đành phải đi ăn xin.
Khi người chồng cũ đi ăn xin đến nhà người vợ, hai bên nhận ra nhau. Người vợ mời chồng cũ vào nhà, hai người đang tâm sự thì người chồng mới trở về, sợ khó giải thích, nên người vợ bảo chồng cũ ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Người chồng mới về nhà không biết nên ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng (có tích nói rằng để thui một con vật mới săn được). Người chồng cũ vì thế bị chết thiêu. Người vợ trong nhà chạy ra thấy vậy nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Người chồng mới quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân (定福灶君), mỗi người giữ một việc:
 - Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
 - Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
 - Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần
Ngày 23 tháng Chạp chính là ngày cả 3 vị hóa, cũng là ngày cuối năm vậy nên dân gian lấy ngày này để cúng Táo Quân.
 Lễ vật cũng Táo Quân:

Mã cúng ông Táo ngày nay
Lễ vật cúng ông Táo gồm: mũ ông Công ba chiếc. Ngày trước, chiếc mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn; mũ dành cho Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Hương, đèn nến, lọ hoa tươi, đĩa ngũ quả tươi. Ba bộ mũ áo, hia hài Táo Quân cùng tiền vàng. Có khi chỉ cúng tượng trưng một chiếc mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.
Những đồ vàng mã như mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta sẽ lập bài vị mới cho Táo Công.
Ngoài ra, còn cúng cá chép để các ông, bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một hoặc ba con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được "phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng. Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Miền Nam thì lễ vật đơn giản, họ chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm mâm cỗ mặn hay lễ chay để tiễn Táo Quân.
Văn khấn nôm:
(năm) niên (tháng) nguyệt (ngày) nhật
Cung thỉnh:
Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần
Tín chủ con là: .......................... đồng gia đẳng
Ngụ tại: Việt Nam quốc ..... tỉnh/thành ........ quận/huyện .......phường/xã .......... thôn (địa chỉ từ lớn xuống bé)
Nhân ngày 23 tháng Chạp tín chủ chúng con thành tâm, sửa biện hương hoa phẩm vật xiêm hài áo mũ, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án, dâng hiến tôn thần, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời:
Ngài Đông trù tư mệnh Táo Phủ thần quân, Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật.
Phỏng theo lệ cũ, ngài là vị chủ, ngũ tự Gia Thần, soi xét lòng trần, Táo quân chứng giám.
Trong năm sai phạm, các tội lỗi lầm, cúi xin tôn thần, gia ân châm chước. Ban lộc ban phước, phù hộ toàn gia, trai gái trẻ già, an ninh khang thái.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo

Ban thờ - sắp đặt và bài trí

Tín ngưỡng của người Việt là thờ cúng tổ tiên vậy nên người Việt lập bàn thờ thần thánh và tổ tiên trong nhà. Nhiều người cho rằng vị trí đặt bàn thờ gia tiên thuận lợi nhất là tại đại sảnh đốì diện trực tiếp với cửa chính sao cho mỗi khi bước vào nhà đều nhìn thấy bàn thờ. Tuy nhiên, để phù hợp với phong thủy, bàn thờ gia tiên nên đặt ở hướng Tây Bắc của ngôi nhà hoặc của căn phòng. Bởi vì, đây là hướng tượng trưng cho trời.

 VỊ TRÍ ĐẶT BAN THỜ
Nơi đặt ban thờ phải là nơi tĩnh lặng, ít người qua lại, nếu có điều kiện đặt trong một phòng riêng biệt.
Thứ nhất, không được lộ thiên, tức là phía trên, phía sau bàn thờ có cửa sổ hoặc cửa chính đi hoặc trên nóc bàn thờ có ống thông gió. Vị trí đặt ban thờ phải tránh đối diện với đường đi (hành lang, cầu thang đâm thẳng vào) vì như thế dễ bị tán khí, trường hợp bất khả kháng phải dùng bình phong chắn lại.
Thứ hai, bàn thờ tối kị để các vật nặng như đầu dư nhà hay các vật sắc nhọn như: góc tủ, góc cánh cửa chọc thẳng vào mặt bàn thờ hoặc đầu hồi của nhà hàng xóm chĩa vào. Không đặt dưới xà nhà.
Thứ ba, phải tránh những nơi bẩn tạp như nhà tắm, nhà vệ sinh, hay giường ngủ của vợ chồng. Nếu tầng dưới đặt bàn thờ thì tầng trên cũng không được đặt bếp hoặc phòng ngủ, nhà tắm nhà vệ sinh. Không đặt ban thờ chung lưng với tường nhà vệ sinh, nhà bếp.

BÀI TRÍ BAN THỜ
Trong cùng và là nơi cao nhất của ban thờ là khám thờ (có cửa đóng mở), ngai thờ đặt bài vị thần linh, tổ tiên. Phía trước ngai đặt 3 chén nước trên một bộ tam sơn hoặc mịch.
Tiếp đến là đỉnh trầm (nếu có) với đôi hạc chầu hai bên (nếu có).
Bên ngoài đặt bát hương, nếu là 3 bát, bày theo hàng ngang (hình chữ Nhất), nếu là 2 bát thì bát nhỏ đặt trước bát lớn và thấp hơn một chút, trường hợp 4 bát hương thì 3 bát bày theo chữ Nhất, một bát đặt chính giữa, phía trước bát lớn hơn.
Phía ngoài bát hương là nơi bày biện lễ vật như hoa, quả, bánh kẹo, rượu... bày theo nguyên tắc "đông bình tây quả": lọ hoa bên tay phải và bồng hoa quả đặt bên trái (theo hướng người cúng nhìn vào) trước bát hương đặt nước hoặc rượu.
Ngoài cùng là đôi nến hoặc đèn, tượng trưng cho Nhật Nguyệt.
Trường hợp gia đình có thờ Phật, tốt nhất có phòng thờ riêng hoặc ít ra cũng lập một ban thờ riêng, không thờ chung với ban gia tiên và thần linh, vì thờ gia tiên và thần linh thường dùng lễ mặn, cũng phật thì phải cúng chay hoàn toàn, vậy nên việc thờ phụng phải riêng một nơi.
Ở nhiều gia đình, thường thờ cả Phật, Quan âm và Quan đế thánh quân trong cùng một phòng, thậm chí quay mặt vào nhau, điều này tuyệt kỵ.

ĐỒ DÙNG TRÊN BAN THỜ
Một bộ Ngũ sự bằng đồng
 Trên ban thờ nên có đầy đủ ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ: Ban thờ thường bằng gỗ (Mộc), bát hương, lọ hoa, bồng... bằng sứ (Thổ), chén nước (Thủy), đèn, nến (Hỏa), lư hương, hạc, chân nến... (Kim). Không nên sử dụng toàn bộ đồ thờ bằng đồng, điều này không tốt vì kim khí quá vượng làm mất cân bằng trong Ngũ Hành. Đồ Kim khí thường chỉ nên sử dụng Ngũ sư, Thất sự, Cửu sự. Bát hương, lọ hoa, khay, bồng, chén nước... cũng có thể sử dụng đồ đồng nhưng nên có sự cân đối bằng cách sử dụng đồ Thổ (sành sứ) Mộc (gỗ mộc, sơn mài) để cân bằng âm dương ngũ hành.

LAU DỌN BAN THỜ
Ban thờ là nơi thờ cũng thần linh, tiên tổ vì vậy lau dọn ban thờ thường xuyên giữ cho ban thờ sạch sẽ là điều nên làm thường xuyên, tuy nhiên, khi lau dọn ban thờ phải chú ý:
 - Đồ dùng lau, quét ban thờ phải sạch sẽ, khăn chổi phải dùng riêng, không dùng những loại khăn chổi uế tạp, sử dụng chung cho việc lau dọn những nơi khác.
 - Nước sử dụng cho việc lau, rủa ban thờ, đồ thờ phải là nước sạch thanh tịnh, thường đun với là trầu, lá bồ đề, gỗ vang và quế để tạo màu đỏ đẹp và có mùi hương thơm.
 - Khi lau dọn nên tránh việc xê dịch bát hương, đặc biệt là nhấc bát hương để lau chùi, nếu cần thiết, nên thắp hương xin trước và tạ sau khi xong việc. Cũng có thể đợi sau ngày 23 tháng Chạp, khi ông Táo đã lên trời, để làm việc này.
Việc hóa chân hương, trong năm nên hạn chế và không làm nếu chưa cần thiết, sau ngày 23 tháng Chạp đến trước lễ Tất niên có thể tỉa bớt chân nhang và hóa.

Vài điều sơ đảng về việc sắp đặt, bài trí ban thờ cùng việc lau dọn, mong rằng giúp ích cho những bà con chưa biết rõ.

Tam Đa: Phúc - Lộc - Thọ

Phúc Lộc Thọ (Giản thể: 福禄寿; Phồn thể: 福祿壽; bính âm: Fú Lù Shòu) là thuật ngữ thường được sử dụng trong văn hóa Trung Hoa và những văn hóa chịu ảnh hưởng từ nó, để nói về ba điều cơ bản của một cuộc sống tốt đẹp là: những điều lành (Phúc), sự thịnh vượng (Lộc), và tuổi thọ (Thọ). Mỗi điều tượng trưng cho một vị thần, ba vị này thường gọi chung là ba ông Phúc-Lộc-Thọ hay Tam Đa, và thường không tách rời.
Một bộ tượng Tam Đa bằng sứ
Truyền thuyết kể rằng: Đời Đường Ngu ở Trung Hoa, có vua Nghiêu, vị Hoàng đế hiền minh thời thái bình thịnh trị, nhân dịp tiết xuân đi thưởng ngoạn cảnh xuân vùng đất Hoa Phong để hiểu thêm nhân tình thế thái. Nhân dân đã chúc tụng nhà vua ba điều:
"Một là, kính chúc nhà vua trường thọ", vua Nghiêu không nhận.
Nhân dân lại nói điều hai: "Xin cầu chúc nhà vua thật phú quý nhiều lộc", nhà vua cũng từ chối và nói tránh đi.
Nhân dân lại chúc tiếp điều thứ ba: "Chúc nhà vua sinh nhiều con trai, tỏa phúc ấm cho cả Hoàng tộc". Vua Nghiêu vẫn không chấp nhận mà thay mặt triều đình ban những lời chúc tụng đó thành ba điều chúc: “Đa phúc, đa lộc, đa thọ” gọi là “Tam đa” cho cả trăm họ.
Từ đó, Tam đa trở thành lời chúc nhau trong những ngày tết đến, xuân sang. Và cũng từ đó có tượng ba ông “Tam đa”.

Một truyền thuyết khác lại cho rằng:
Ông PhúcQuách Tử Nghi. Thừa tướng đời nhà Đường. ông xuất thân vốn là quý tộc, đồng ruộng bát ngát hàng trăm mẫu, nhưng suốt cuộc đời tham gia triều chính, ông sống rất liêm khiết, thẳng ngay. Không vì vinh hoa, phú quý mà làm mất nhân cách con người.
 Ông và cụ bà cùng thọ đến hơn 80 tuổi và có cháu ngũ đại, cả hai ông bà đề vô bệnh mà mất.
Ông LộcĐậu Từ Quân, làm quan đến chức Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng ông Đậu Từ Quân là một quan tham. Tham lắm, ông hưởng không biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót của những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội cho chính mình, cho con, cho cháu, cho thân tộc.
Trong nhà ông, của cải chất cao như núi. Tưởng ông Đậu Từ Quân được như thế đã là giàu sang, vinh quang đến tột đỉnh. ông chỉ hiềm một nỗi, năm ông tám mươi tuổi vẫn chưa có đích tôn. Do vậy ông lo nghĩ buồn rầu sinh bệnh mà chết. ông ốm lâu lắm, ông nằm đến nát thịt, nát da, mùi hôi thối đến mức con cái ông không dám đến gần. Đến khi chết, ông cũng không nhắm được mắt, ông than rằng:
- Lộc ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?
Ông ThọĐông Phương Sóc, làm Thừa tướng đời Hán. Triết lý làm quan của ông Đông Phương Sóc là quan thì phải lấy lộc. Không lấy lộc thì làm quan để làm gì. ông coi buôn chính trị là buôn khó nhất, lãi to nhất. Nhưng ông Đông Phương Sóc vẫn là quan liêm. Bởi ông nhất định không nhận đút lót. ông chỉ thích lộc của vua ban thưởng.
Do ông Đông Phương Sóc muốn có nhiều tiền để mua gái trẻ làm liều thuốc dưỡng dương, cho nên suốt cuộc đời cũa ông, ông chỉ tìm lời nói thật đẹp, thật hay để lấy lòng vua. Có người bạn thân khuyên ông:
 - Ông làm quan đầu triều mà không biết tìm lời phải, ý hay can gián nhà vua. Ông chỉ biết nịnh vua để lấy thưởng thì làm quan để làm gì.
Đông Phương Sóc vuốt chòm râu bạc, cười khà khà bảo:
 - Làm quan không lấy thưởng thì tội gì mà làm quan. Can gián vua, nhỡ ra vua phật ý, tức giận, chém đầu cả ba họ thì sao?
Đông Phương Sóc 125 tuổi mới chịu từ giã cõi đời. Khi ông chết thì con không còn, cháu cũng đã hết cơm hết gạo mà chắt đích phải làm ma, phải thay cha, thay ông, trở ông nội.

Qua ba bức tượng Phúc, Lộc, Thọ người đời thấy, người Hoa Hạ đã khéo xếp ba vị thừa tướng, ba tính cách khác nhau ở ba triều đại khác nhau để răn đời.
Trong ba điều ước Phúc, Lộc, Thọ ấy chỉ có thể được một mà thôi.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp

Tại Việt Nam, một số thầy pháp và sách vở dạy cách thờ Tam Đa, nhưng trên thực tế, cũng chỉ thấy bày trong phòng khách, nơi làm việc kinh doanh chứ chưa thấy đạo nào thờ cúng 3 vị này.

Lưu niên hành khiển


Người xưa, với quan niệm 12 địa chi sẽ có 12 vị thần hành khiển (quan văn), hành binh (quan võ) gọi là Thập nhị Đại vương hành khiển và tin rằng đó là những người thay mặt Ngọc Hoàng trông coi mọi việc trên thế gian, mỗi vị một năm theo chu kỳ của 12 con giáp. Bắt đầu là năm Tý, năm cuối cùng là năm Hợi.

Các vị đại vương này còn gọi là đương niên chi thần, mỗi vị có trách nhiệm cai trị thế gian trong cả năm, xem xét mọi việc hay dở của từng người, từng gia đình, từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công luận tội, tâu lên Thượng đế. Thượng đế, căn cứ vào bản công tội đó để chỉ thị cho người mới xuống  cai trị biết để định công, tội. Bên cạnh mười hai vị hành khiển là mười hai phán quan. Đại vương hành khiển lo việc thi hành những mệnh lệnh của Ngọc Hoàng còn phán quan thì lo việc ghi chép công, tội của mọi người, mọi gia đình, mọi thôn xã. Trong các vị hành khiển, có vị nhân từ, có vị cương trực và cũng có vị khắc nghiệt. Nếu năm đó gặp vị hành khiển nhân từ, cương trực, đức độ thì nhân dân no đủ, khang thái, ít thiên tai, dịch bệnh. Ngược lại, năm nào đói kém nhiều, bệnh tật, tai ách, loạn lạc triền miên người ta tin rằng đó là hoạ do vị hành khiển năm đó giận dữ giáng xuống.

Vương hiệu của 12 vị hành binh, hành khiển và  phán quan là:
Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn hành binh chi thần, Lý Tào phán quan.
Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam Thập lục phương hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan.
Năm Dần: Ngụy Vương Hành khiển, Mộc Tinh hành binh chi thần, Tiêu Tào phán quan.
Năm Mão: TrịnhVương Hành khiển, Thạch Tinh hành binh chi thần, Liễu Tào phán quan.
Năm Thìn: Sở Vương Hành khiển, Hoả Tinh hành binh chi thần, Biểu Tào phán quan.
Năm Tị: Ngô Vương Hành khiển, Thiên Hao hành binh chi thần, Hứa Tào phán quan.
Năm Ngọ: Tần Vương Hành khiển, Thiên Mao hành binh chi thần, Ngọc Tào phán quan.
Năm Mùi: Tống Vương Hành khiển, Ngũ Đạo hành binh chi thần, Lâm Tào phán quan.
Năm Thân: Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu hành binh chi thần, Tống Tào phán quan.
Năm Dậu: Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc hành binh chi thần, Cự Tào phán quan.
Năm Tuất: Việt Vương Hành khiển, Thiên Bá hành binh chi thần, Thành Tào phán quan.
Năm Hợi: Lưu Vương Hành khiển, Ngũ Ôn hành binh chi thần, Nguyễn Tào phán quan.

Mỗi năm trong các bài văn khấn giao thừa khi dâng hương ngoài trời đều khấn danh vị của các vị quan hành khiển cùng các vị phán quan, năm nào thì khấn danh vị cũng như phải sắm áo vải đúng màu với đương niên hành khiển năm ấy. Tên các vị hành khiển theo thập nhị địa chi, nhưng màu sắc bài vị, quần áo tuân theo phép ngũ hành: năm hành Kim màu Trắng, Mộc màu Xanh, Thủy màu Đen (có thể thay bằng Tím); Hỏa màu Đỏ, Thổ màu Vàng.

Thần Tài

Một trong những vị thần được thờ nhiều nhất ở nước ta là Thần Tài, nếu lấy vị thần được thờ nhiều nhất làm quốc đạo chắc nước ta theo đạo Thần Tài.
Được thờ phổ biến nhất là hai vị Thần Tài - Ông Địa, tuy nhiên còn nhiều vị khác nhưng không phổ biến hoặc thờ mà không biết hặc gọi sai tên Ngài.
Thần Tài - Ông Địa:
Thần tài - Ông Địa
Du nhập theo các thương lái người Hoa thuộc Lưỡng Quảng, Phúc Kiến vào miền Nam đầu thế kỷ 20 rồi dần dần lan ra miền Bắc, 2 vị này thường được bày trong khám thờ với bài vị kép:
"Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần
Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần"
bên ngoài khám là liễn đối:
"Thổ năng sinh bạch ngọc
Địa khả xuất hoàng kim"
Hai vị này do du nhập vào miền Nam nên việc thờ cũng theo phong tục trong Nam với nghi thức đơn giản hơn nhiều so với các thần thánh khác.
Tài Bạch Tinh Quân:
Thường gọi tắt là Thần Tài, không mấy ai biết đủ về danh hiệu của Ngài nên thương nhầm với hai vị Thần Tài - Ông Địa ở trên.
Tài Bạch Tinh Quân
Bố Đại Hòa thượng:
Do có ngoại hình giống Di Lặc Tôn Phật nên Ngài thường bị dân gian gọi nhầm tên này, vậy nên không biết khi khấn Ngài có về chứng hay không nữa, thương người ta không lập ban thờ riêng cho Ngài mà chỉ bày tượng Ngài ở nơi gần cửa, trước sân hoặc thờ chung ban với thần tài khác.
Bố Đại Hòa thượng


Bố Đại Hòa thượng
Quan Đế Thánh quân:
Một trong những vị được thờ khá nhiều mà không mấy ai nghĩ rằng mình đang thờ thần tài đó là Quan Đế Thánh quân, dân gian thường gọi Quan Công, Quan Vũ... Người ta thường thờ Ngài để trấn Sát khí, Hung địa mà không nghĩ rằng việc thờ Quan Đế Thánh quân có thể hóa Hung thành Cát, trấn Sát hóa Tài mà được thêm nhiều tài nhiều lộc.
Quan Đế Thánh quân
Triệu Công Minh:
Ngài Mặt đen, Râu dài, cưỡi Hắc Hổ, cầm roi phép, được Ngọc Hoàng phong là "Lôi bộ phó Nguyên soái", cũng là một vị Võ thần tài. Dưới trướng của Ngài là 4 vị:
 - Chiêu Bảo Thiên tôn Tiêu Thăng
 - Nạp Trân Thiên tôn Tào Bảo
 - Chiêu tài Sứ giả Trần Cửu Công
 - Lợi Thị Tiên quan Dao Thiếu Tư
Triệu Công Minh
Hắc-Bạch Vô Thường:
Tuy là 2 vị quỷ sứ dẫn hồn tay cầm tràng phan trước điện Diêm Vương nhưng đây cũng là Thần tài được dân gian Lưỡng Quảng thờ khá nhiều, với ban thờ có 4 chữ "Nhất kiến sinh tài" với quan niệm tuy là quỷ bắt hồn, nhưng nếu ai có duyên gặp 2 Ngài thì thường phát tài phát lộc rất lớn.

HƯỚNG ĐẶT BAN THỜ THẦN TÀI:
Nhiều người thường cẩn thận xem bói theo tuổi để đặt ban thờ Thần Tài, để tỏ ra thông thạo, nhiều thầy cũng xem hướng, xem tuổi để đặt ban Thần Tài cho gia chủ, đây là quan niệm hết sức sai lầm.
Thường ban Thần Tài có thể đặt trong nhà, ngoài sân... nhưng nhất thiết phải quay ra cửa hoặc cổng, nơi có khách khứa ra vào. Nơi đặt ban Thần Tài trong nhà phải quay ra của chính, không được để bất cứ vật gì che chắn làm khuất tầm nhìn, không đối diện gương, kính...
Trên ban thờ thần tài có thể đặt 3 hũ: gạo, muối, nước. Tượng trưng cho những thứ thiết yếu của cuộc sống, cũng là của ăn của để.
Linh vật trên ban thần tài thường đặt Thiềm Thừ 3 chân với ý nghĩa thăng tiến (không dùng loại 4 chân, đã hóa Thiềm Thừ hoàn toàn, làm mất ý nghĩa thăng tiến), Tỳ Hưu để giữ của, Long Quy để làm ăn được bền vững, chắc chắn (ngoài ra, chữ Long, đồng âm với Long là Rồng, còn có nghĩa Thịnh Vượng)...

Nạp âm Lục thập Hoa giáp

Khi bắt đầu mọi công việc, yếu tố đầu tiên được nhắc đến là tuổi của người liên quan, chủ sự, đó chính là Lục thập hoa giáp, hy vọng bài dưới đây sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về yếu tố này.

Giáp Tý, Ất Sửu : Hải Trung Kim
Bởi ngũ hành của Tý đối ứng là Thủy, thủy còn gọi là hồ lớn, nơi đó thế thủy thịnh vượng. Trong ngũ hành Kim tử ở Tý, tang mộ ở Sửu. Thủy thế thịnh vượng kim lại tử ở đó cho nên gọi là Hải Trung Kim.

Bính Dần, Đinh Mão: Lô Trung Hỏa
Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, (Bính, Đinh trong ngũ hành thuộc Hỏa) hỏa đã đạt đến vị trí chính lại được Dần Mão thuộc mộc. Trong ngũ hành trợ giúp. Khi này trời đất phảng phất như lửa trong lò mới sinh, vạn vật vừa mới bắt đầu sinh trưởng mà gọi là Lô Trung Hỏa trời đất như lò lửa, âm dương như than củi.

Mậu Thìn, Kỷ Tỵ: Đại Lâm Mộc
Thìn đại biểu cho đất đai hoang dã, Tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi. Mộc ở ngôi thứ 6 có lợi sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã mà gọi là Đại Lâm Mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ Bàng Thổ
Mùi ngũ hành là Thổ sinh Mộc, khiến cho Ngọ ngũ hành là Hỏa được thành ra Hỏa vượng. Kết quả là Thổ ngược lại bị chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh vật (Mộc), Mộc lại sinh Hỏa, Hỏa phản lại đốt Thổ. Cho nên Thổ bị chịu hại lấy bản thân giống như đất bụi ven đường mà gọi là Lộ Bàng Thổ. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với thổ mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời.

Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm Phong Kim
Ngũ hành của Thân Dậu là Kim, đồng thời Kim trong quá trình sinh trưởng vị trí Lâm quan ở Thân, Đế vượng ở Dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cương cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm, nên gọi là Kiếm Phong Kim.

Giáp Tuất, Ất Hợi: Sơn Đầu Hỏa
Tuất Hợi là cửa trời ( Giáp Ất thuộc Mộc) đốt lửa soi sáng cửa trời, ánh lửa nhất định chiếu đến cực cao. Cho nên đem nó gọi là Sơn Đầu Hỏa. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh, do đó Hỏa trên núi có thể phản ánh được ráng trời.
Sơn Đầu Hỏa có thể thông với trời nên mệnh này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có Mộc, có Hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ Thủy, nếu gặp Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi.

Bính Tý, Đinh Sửu: Giản Hạ Thủy
Thủy ở trong ngũ hành vượng ở Tý suy ở Sửu. Thủy trong Bính Tý, Đinh Sửu thịnh vượng nhưng lại suy yếu. Cho nên không thể thành nước ở sông mà gọi là Giản Hạ Thủy (nước ở khe suối), khi mới thì lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là đó hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung tóe như hạt tuyết. Cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng lớn chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh mảnh. Hợp với Sa Trung Kim (Giáp Ngọ, Ất Mùi) Kiếm Phong Kim (Nhâm Thân, Quý Dậu). Nhưng không hợp mệnh của Thổ và Hỏa. Thủy Hỏa chẳng dung nạp nhau, Thổ lại làm cho nước suối đục. Tốt nhất là gặp Đại Khê Thủy (Giáp Dần, Ất Mão) tương hợp tượng trưng cho suối nhỏ hợp thành sông càng chảy càng dài không phải lo nghĩ.

Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành Đầu Thổ
Thiên can Mậu Kỷ ngũ hành thuộc Thổ, Dần Mão ngũ hành thuộc Mộc, giống như tích thổ thành núi, phảng phất như đắp đất thành tường cho nên gọi là Thành Đầu Thổ.
Kinh đô của hoàng đế cư trú dùng đất đắp thành, lấy gạch xây thành như hình rồng cuốn chạy dài nghìn dặm, mãnh hổ tọa thế trấn bốn phương. Mệnh này gặp nước gặp núi là hiển quý. Trong thành gặp núi gặp nước là núi giả, nước tù không phải là quý. Nên kỵ  Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi), Tích lịch hỏa (Mậu Tý, Kỷ Sửu).

Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch Lạp Kim
Kim hình thành trong Thổ mà sau lại ở cùng với Hỏa. Tuy hình thái của Kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn. Cho nên gọi là Bạch Lạp Kim (vàng đài nến). Khi này khí của Kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà ngưng kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của Bạch Lạp Kim gặp Phú Đăng Hỏa (Giáp Thìn, Ất Tỵ) trong số mệnh gọi là “Phong mãnh hổ cách” thi cử học tập có đường đi tốt đẹp. Lại như gặp Trường Lưu Thủy (Giáp Thân, Ất Dậu), Trường Lưu Thủy (Nhâm Thìn, Quý Tỵ) trong số mệnh cho là mệnh quý. Nhưng bởi vì Bạch Lạp Kim tính yếu cho nên sợ Mộc khắc nó trừ khi nó gặp được Hỏa yếu cần phải có Mộc lại trợ giúp.

Nhâm Ngọ, Quý Mùi: Dương Liễu Mộc
Mộc tử ở Ngọ mộ tàng ở Mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can Nhâm Quý Thủy trong ngũ hành để cứu sống nó. Nhưng rốt cục sức sống mộc vẫn yếu đuối cho nên gọi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây liễu). Nó giống như tằm nhả vạn mối dây tơ. Dương Liễu Mộc chỉ thích hợp với Ốc Thượng Thổ (Bính Tuất, Đinh Hợi), nhưng lại thích Thủy, trừ Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) ra thì đều tốt. Bản tính Dương Liễu Mộc tính Mộc yếu đuối gặp Hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp Thạch Lựu Mộc (Canh Thìn, Tân Dậu) sẽ bị Thạch Lựu Mộc thịnh vượng áp chế, khiến cho Dương Liễu Mộc một đời bần tiện.

Giáp Thân, Ất Dậu: Tuyền Trung Thủy
Kim kiến lộc ở Thân, vượng ở Dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào Hỏa để sinh Thủy, nhưng Thủy khi mới sinh thì ít ỏi, thế lại không vượng cho nên gọi là Tuyền Trung Thủy (nước trong suối). Từ nguồn gốc của nó mà nói, có Kim thì nguồn Thủy không bao giờ dứt. Lấy Sa Trung Kim (Giáp Ngọ, Ất Mùi), Thoa Xuyến Kim (Canh Tuất, Tân Hợi)  là tốt, gặp Thủy gặp Mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm tháng ngày giờ thì năm và giờ trụ đều có Thủy, ngày tháng hai trụ đều có Mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý.

Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc Thượng Thổ
Bính Đinh ngũ hành thuộc Hỏa, Tuất Hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang cháy lại ở trên cao vậy thì Thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà). Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà thực tế chỉ là gạch ngói. Tuất Hợi như Thổ gặp Thủy hòa lại thành bùn, lấy Hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà lợp phòng. Ốc Thượng Thổ đã là gạch ngói, nó là đồ để lợp nhà đương nhiên cần Mộc là giá đỡ, sau mới cần Kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp Kiếm Phong Kim (Nhâm Thân, Quý Dậu), Kim Bạch Kim (Nhâm Dần, Quý Mão) đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên Ốc Thượng Thổ cũng sợ Hỏa. Nhưng Thiên Thượng Hỏa (Mậu Ngọ, Kỷ Mùi) lại rất tốt vì Thiên Thượng Hỏa tượng trưng cho ánh nắng mặt trời.

Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích Lịch Hỏa
Ngũ hành Sửu thuộc Thổ, ngũ hành Tý thuộc Thủy, Thủy ở chính vị mà với nạp âm gọi Hỏa. Đây là Hỏa trong Thủy, là thuộc tính rồng thần, cho nên ví nó như Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét). Lửa sấm, sét thế như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất Thủy Hỏa vốn chẳng bao dung nhau mà nay Thủy Hỏa hợp nhất, sách xưa cho là một loại rồng thần. Rồng thần khi đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó Tích Lịch Hỏa với Thủy Thổ Mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Cái kỵ là Hỏa, bởi vì hai Hỏa gặp nhau tính khô nên xấu.

Canh Dần, Tân Mão: Tùng Bách Mộc
Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở Dần, thịnh vượng ở Mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi nó là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng), tích huyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ cành là dao động như lá cờ bay.
Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong Hỏa chỉ có Lô Trung Hỏa (Bính Dần, Đinh Mão), trong Thủy chỉ có Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) mới có thể hại được nó, ngoài ra tất cả đều vô hại. Tùng Bách Mộc sợ gặp Đại Lâm Mộc (Mậu Thìn, Kỷ Tỵ), Dương Liễu Mộc (Nhâm Ngọ, Quý Mùi), tuy cùng là Mộc nhưng chất không giống tùng bách mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách thích gặp Kim, gặp nó là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “Thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng ngày giờ thuộc đông tức (Nhâm, Quý, Hợi, Tý thuộc đông), mệnh cách này là mệnh phú quý.

Nhâm Thìn, Quý Tỵ: Trường Lưu Thủy
Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, Tỵ trong ngũ hành là nơi sinh Kim. Trong ngũ hành Kim sợ Thủy, Kim trong Tỵ có hàm chất Thủy, bởi vì nơi tích trữ Thủy gặp Kim sinh Thủy, cho nên nguồn Thủy liên tục không ngừng mà gọi là Trường Lưu Thủy (nước sông dài). Trường Lưu Thủy ở Đông Nam lấy yên tĩnh làm quý.
Trường Lưu Thủy thế có cuồn cuộn không dừng, Kim có thể sinh Thủy cho nên nước sông dài gặp Kim là tốt. Nó sợ gặp Thủy bởi Thủy nhiều quá dễ gây úng lụt, đồng thời Thổ Thủy tương khắc gặp Ốc Thượng Thổ (Bính Tuất, Đinh Hợi), Bích Thượng Thổ (Canh Tý, Tân Sửu) thì khó tránh được tai họa, cần phải có Kim sinh Thủy ở lại ứng cứu. Ngoài ra, Thủy Hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối hẳn như thế. Trường Lưu Thủy gặp Giáp Thìn (Phú Đăng Hỏa), Ất Hợi (Sơn Đầu Hỏa) tuy là hỏa nhưng Thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển mệnh, cách ngược lại là cực tốt.

Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim
Ngọ là nơi đế vượng của Hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì Kim suy. Mùi là nơi có Hỏa vượng suy yếu trong ngũ hành. Hỏa suy yếu Kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, Kim mới có hình, cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là Sa Trung Kim (vàng trong cát). Sa Trung Kim là Kim mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có Hỏa để luyện. Nhưng Hỏa quá vượng, mà Hỏa vượng thì Kim bại đồng thời cần phải có Mộc lại khắc chế Kim, khiến Kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy Sơn Đầu Hỏa (Giáp Tuất, Ất Hợi), Sơn Hạ Hỏa (Bính Thân, Đinh Dậu), Phú Đăng Hỏa (Giáp Thìn, Ất Tỵ) tính ôn hòa lại luyện nó. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa Trung Kim cần có Thủy tĩnh, sợ nếu gặp Trường Lưu Thủy (Nhâm Thìn, Quý Tỵ) và Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với Giản Hạ Thủy (Bính Tý, Đinh Sửu), Tuyền Trung Thủy (Giáp Thân, Ất Dậu) và Thiên Hà Thủy (Bính Ngọ, Đinh Mùi) mới tốt. Sa Trung Kim cũng sợ gặp Lộ Bàng Thổ (Canh Ngọ, Tân Mùi), Sa Trung Thổ (Bính Thìn, Đinh Tỵ) và Đại Trạch Thổ (Mậu Thân, Kỷ Dậu) vì sẽ bị nó chôn vùi.

Bính Thân, Đinh Dậu: Sơn Hạ Hỏa
Thân là cửa mở xuống dưới đất, Dậu là nơi về của thái dương. Một ngày đến chỗ đó là dần dần tối đi như mặt trời xuống núi. Cho nên, gọi là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi). Sơn Hạ Hỏa thực tế là chỉ mặt trời lúc buổi tối, mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp Thổ gặp Mộc là tốt. Nó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp Tích Lịch Hỏa, Thiên Thượng Hỏa và Phú Đăng Hỏa.

Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình Địa Mộc
Ý nghĩa của Mậu là đồng bằng, Hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi nó là Bình Địa Mộc (cây đồng bằng). Bình Địa Mộc thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, nó cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì thế nên sợ Kim, nếu gặp Kim là bất lợi. Nó thích Thủy, Thổ và Mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi “Hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp Dần, Mão. Hai chi này đều thuộc Mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông cũng là một loại mệnh quý.

Canh Tý, Tân Sửu: Bích thượng thổ
Sửu là chính vị của Thổ trong ngũ hành. Nhưng Tý là nơi Thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp phải Thủy tràn lan mà biến thành bùn, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là Bích Thượng Thổ (đất trên tường). Bích Thượng Thổ dùng để làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp Mộc sẽ tốt, gặp Hỏa thì xấu, gặp Thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp Đại Hải Thủy. Còn với Kim thì chỉ hợp Kim Bạch Kim.

Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạch Kim
Dần Mão ngũ hành thuộc Mộc, là nơi Mộc vượng. Mộc vượng thì Kim bị gầy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở Dần, thai ở Mão. Tóm lại Kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là Kim Bạch Kim.
Mọi người dùng Kim Bạch Kim làm đồ trang sức, người xưa dùng nó để phủ chữ trong các đền chùa và các đồ khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý nguồn gốc của nó là do kim gia công mà thành. Kim Bạch Kim gặp Thành Đầu Thổ, Bích Thượng Thổ mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh Kim gặp Mậu Dần (Thành Đầu Thổ), gọi là “Viên ngọc núi Côn Sơn”. Quý Mão trong Kim Bạch Kim gặp Kỷ Mão (Thành Đầu Thổ) gọi “Thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý.

Giáp Thìn, Ất Tỵ: Phú Đăng Hỏa
Thìn là trời đã sáng, Tỵ là sắp đến buổi trưa. Mặt trời tỏa sáng thiên hạ không cần phải đốt đèn chiếu sáng, cho nên bị xem là Phú Đăng Hỏa (lửa ngọn đèn), ánh sáng của đèn lung linh, cây đèn chiếu sáng đến những nơi mặt trời mặt trăng không thể chiếu sáng tới được.
Phú Đăng Hỏa chính là lửa chiếu sáng ban đêm, nó không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc Thủy chi nên ngọn đèn gặp Mộc gặp Thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó Phú Đăng Hỏa kỵ mặt trời. Phú Đăng Hỏa có hai loại mệnh quý, một là “Che đèn thêm dầu” chỉ Phú Đăng Hỏa gặp Giản Hạ Thủy, Tuyền Trung Thủy, Trường Lưu Thủy. Và một loại “Dưới đèn múa kiếm” chỉ Phú Đăng Hỏa gặp Kiếm Phong Kim. Ngoài ra Phú Đăng Hỏa còn sợ gặp Thổ trong ngũ hành chỉ trừ Ốc Thượng Thổ (Bính Tuất, Đinh Hợi). Nó cũng thích Hỏa nhưng trừ Tích Lịch Hỏa là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn.

Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiên Hà Thủy
Bính Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là nơi ngũ hành Hỏa vượng nhưng nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong Hỏa sinh ra cho nên xem như Thiên Hà Thủy (nước trên trời). Nguyên khí lên cao khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa. Nó có công lao thúc đẩy sự sinh trưởng vạn vật.
Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có Bích Thượng Thổ (Canh Tý, Tân Mùi) là đất trên tường là tương xung với nó.

Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Trạch Thổ
Thân là quẻ Khôn, quẻ Khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ Đoài, quẻ Đoài ý nghĩa trong bát quái là đầm ao. Mậu Kỷ trong ngũ hành thuộc Thổ, nó ở trên mặt đất ao hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là Đại Trạch Thổ (đất đầm lớn).
Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như Đại Trạch Thổ quay về với mặt đất. Đại Trạch Thổ thuộc mệnh cách tương đối cao quý, nó đại biểu cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đại Trạch Thổ thích nước tương đối thanh tĩnh như Giản Hạ Thủy, Tuyền Trung Thủy, Trường Lưu Thủy. Nó cũng thích Kim thanh tú như Thoa Xuyến Kim, Kim Bạch Kim. Có một số can chi khí vượng thế mạnh nó gặp phải bị vùi chon như Đại Hải Thủy, Sơn Đầu Hỏa, Sơn Hạ Hỏa, Phú Đăng Hỏa…Gặp phải Tích Lịch Hỏa đành phải dùng Thủy hóa giải. Nhưng vật cực tất phản mệnh, cách khắc này ngược lại thành quý.

Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim
Ngũ hành Kim suy yếu tại Tuất, bệnh tại hợi. Kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu mà gọi Thoa Xuyến Kim (vàng trang sức). Thoa Xuyến Kim là vàng bạc liệu có phú quý không? Không nhất định như vậy. Vạn vật cái quý nhất là được bản tính tự nhiên. Cho nên Thoa Xuyến Kim là vật để đeo trang sức đương nhiên đã bị làm tổn thương. Thoa Xuyến Kim sợ gặp Hỏa, thích gặp Giản Hạ Thủy, Tuyền Trung Thủy, Đại Khê Thủy, Trường Lưu Thủy dài là tốt. Nhưng sợ gặp Đaih Hải Thủy ví như đá rơi đáy biển. Ngoài ra nó còn thích Sa Trung Thổ bởi vì Thổ có thể sinh Kim.

Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang Đố Mộc
Ngũ hành Tý thuộc Thủy, Sửu thuộc Thổ sinh Kim. Thủy có thể làm cho Mộc sinh trưởng tươi tốt nhưng Kim lập tức có thể chặt nó. Nó giống như cây dây vừa mới sinh trưởng đã bị người ta chặt, cho nên gọi nó là Tang Đố Mộc (gỗ cây dâu). Quá trình sinh trưởng của Tang Đố Mộc nếu gặp Sa Trung Thổ, Lộ Bàng Thổ, Đại Trạch Thổ nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp Trường Lưu Thủy, Tuyền Trung Thủy, Đại Khê Thủy sẽ giúp nó tươi tốt. Nếu gặp Tùng Bách Mộc (Canh Dần, Tân Mão), đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp Dương Liễu Mộc người ta gọi “Dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp Đại Lâm Mộc giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp Bình Địa Mộc, Thạch Lựu Mộc sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu.

Giáp Dần, Ất Mão: Đại Khê Thủy
Dần Mão thuộc phương Đông, Dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính Đông, nếu nước hướng chảy chính Đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông mà gọi là Đại Khê Thủy (nước suối lớn). Đại Khê Thủy cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy liên tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp Kim sinh Thủy giúp. Nếu gặp các loại Thổ khác và phải sinh Mộc đều không hay. Chỉ có Nhâm Tý, Quý Sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi “Nước chảy quanh núi” mới là cục mệnh quý.

Bính Thìn, Đinh Tị: Sa Trung Thổ
Thổ trong ngũ hành mộ ở Thìn, tuyệt ở Tỵ. Bính Đinh ngũ hành thuộc Hỏa trưởng thành tại Thìn, hiển thân tại Tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng Hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tất cả. Nó giống như những đốm tro khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành Thổ, cho nên gọi là Sa Trung Thổ (đất trong cát). Sa Trung Thổ có Kim là quý, lại cần nước trong mà lọc Kim ra, cho nên gặp Thủy gặp Kim là quý. Nó thích gặp Thiên Thượng Hỏa có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Nó lại thích Tang Đố Mộc, Dương Liễu Mộc, vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại Mộc, khác đều không tốt.

Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên Thượng Hỏa
Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của Hỏa trong ngũ hành, mà Mùi, Kỷ là nơi Mộc sinh trưởng khiến cho thế Hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao mà gọi Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời), Thiên Thượng Hỏa là mặt trời nên thích gặp Mộc, Thủy, Kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho Thủy tưới Mộc tươi tốt, Mộc giúp Hỏa bốc cháy. Nó thích Phú Đăng Hỏa ngoài ra với các Hỏa khác đều tương khắc. Nó lại thích gặp Thổ, nếu có Kim, Mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Thiên Thượng Hỏa nếu đơn độc với Thủy thì dễ hình thành Thủy Hỏa tương khắc.

Canh thân, Tân dậu: Thạch Lựu Mộc
Thân đại diện cho tháng 7, Dậu đại diện cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu (ổi) là kết trái mà gọi là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lựu). Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính Mộc cứng rắn, với Thủy, Mộc, Thổ, Kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có Đại Hải Thủy thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng bệnh tật. Có thể gặp Thiên Thượng Hỏa, Tích Lịch Hỏa, Lô Trung Hỏa cũng tốt, nhưng hỏa ấy sẽ dự báo điềm xấu. Thạch Lựu Mộc thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 là ngày trụ hoặc giờ trụ lại có mang một Hỏa thì gọi “Thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp Dương Liễu Mộc gọi “Hoa hồng liễu xanh”.

Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đại Hải Thủy
Thủy trong ngũ hành tại Tuất là giai đoạn đã thành thục, tại Hợi cũng là giai đoạn thành thục. Do đó thủy ở đây thế lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của Hợi thuộc Thủy đại diện ý nghĩa của sông đổ ra biển, cho nên gọi nó là Đại Hải Thủy (nước biển lớn).
Biển cả mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Nó là nơi quy tụ của các con sông, cho nên các loại Thiên Hà Thủy, Trường Lưu Thủy, Đại Khê Thủy...gặp Đại Hải Thủy đều tốt. Nhâm Thìn trong Trường Lưu Thủy phối hợp với Đại Hải Thủy gọi “Rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi.
Trong Hỏa nó thích Thiên Thượng Hỏa vì mặt trời mọc ở biển Đông. Trong Kim nó thích Kim đáy biển, trong Mộc nó thích Tang Đố Mộc, Dương Liễu Mộc, trong Thổ nó thích Đại Trạch Thổ, Lộ Bàng Thổ. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi Đại Hải Thủy gặp nhau tất sẽ hại lớn, như Đại Hải Thủy gặp Tích Lịch Hỏa tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp, mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển.