Á-tế-a ca (Bài ca Châu Á)
Á Tế Á [1] năm châu là bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La [2] tìm đất,
Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
Mênh mông một dải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu duy tân,
Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
Kể đời trăm hai mươi hai,
Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa [3].
Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
Chốn kinh thành Thần Hộ [4] mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
Việc kĩ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
Dao với quạt, tán với xe,
Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể lương dân số,
Các sắc quân ước độ triệu người.
Chu vi mặt đất rộng dài,
Tính vuông Pháp lí bốn mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận kì,
Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu[5].
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu[6].
Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
Trường Kì thuyền cục mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác đĩnh[7] ai tày.
Quan quân luyện tập đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò xa,
Phú Sơn cao ngất, Tì Bà trong veo.
Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
Năm Giáp Ngọ[8] đùng đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
Đông tam tỉnh[9] thu trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
Cuộc hoà đâu bất thình lình,
Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay tàu,
Y Đằng[10] can khéo mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại giàu,
Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch[11],
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy[12].
Cõi Đông đương cuộc an nguy,
Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết phen này.
Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Li lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương lại được,
May điều đình có nước Hoa Kì.
Khéo điều hoà cuộc giải vi,
Nếu không Bỉ Đắc[13] còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
Áng liệt cường nay cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản anh tài,
Từ nay danh dự còn dài về sau.
Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá[14], theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp[15],
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giàn bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.
Tác giả
Á Tế Á ca (nghĩa là "Bài ca Châu Á"), còn có tên gọi khác là Đề tỉnh quốc dân ca (Bài ca thức tỉnh quốc dân), Nam hải bô thần ca (Bài ca của một bề tôi trốn tránh người biển Nam), là một bài thơ diễn ca yêu nước được lưu truyền tại Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Trong ba tên gọi khác nhau đã biết của bài thơ tên gọi "Á Tế Á ca" được nhiều người biết đến hơn cả. Cho đến này vẫn chưa rõ tác giả của bài thơ này là ai, người thì cho là Nguyễn Thiện Thuật, người khác thì cho là Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Dương Bá Trạc. (Đoàn Lê Giang, "Ai là tác giả đích thực của bài Á Tế Á ca," Tạp chí Văn hóa Nghệ An, truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2014)Các truyền bản
- Bản được Huỳnh Lý, Hoàng Ngọc Phách công bố lần đầu trong Sơ tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng, tập 2, NXB.Giáo dục, Hà Nội, 1959
- Bản được Đặng Thai Mai sưu tập đưa vào công trình nổi tiếng của ông: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu TK.XX, In lần thứ nhất, NXB.Văn hóa, Hà Nội, 1961.
- Bản của Trường Viễn đông Bác cổ mà Đặng Thai Mai dùng làm bản khảo chứng trong công trình trên.
- Bản được Vũ Văn Sạch công bố gần đây. Bản này được lưu trữ ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia 1 – Hà Nội (Cục Lưu trữ Nhà nước), hồ sơ số 71836 phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Lập luận mà Vũ Văn Sạch đưa ra về tác giả là Phan Bội Châu cũng chưa hoàn toàn thuyết phục. Về vấn đề này, ông viết: "Bài ca được viết và gửi từ Nhật Bản về Phủ thống sứ Bắc Kỳ vào năm 1906. Phủ thống sứ đã lưu trữ lại, rồi dịch toàn bộ bài này sang tiếng Pháp. Thống sứ Bắc Kỳ là Grosleau đã ghi nhận xét: "Đây là một bài ca phê phán chế độ bảo hộ đã được lưu truyền từ năm 1906, và lúc đó cho là của Phan Bội Châu""(7) Tôi cho rằng: bài thơ được gửi từ Nhật về Phủ thống sứ Bắc Kỳ năm 1906 thì chỉ có nghĩa là bài này được sáng tác từ 1906 trở về trước chứ không nhất định là sáng tác vào năm 1906. Thứ hai: vấn đề tác giả là Phan Bội Châu chỉ được nhận định một cách rất dè dặt "lúc đó cho là của Phan Bội Châu" chứ không có bằng cứ văn bản nào thật chắc chắn. Rõ ràng tài liệu tuyên truyền bí mật thì không dễ gì tìm được tác giả, hơn nữa vì thơ tuyên truyền của Phan Bội Châu quá nổi tiếng, nên người ta dễ gán những bài thơ tuyên truyền khác đều là của ông.).