Làng tôi

(trích trường ca “Làng tôi”

Làng tôi cũng có sông cùng núi,
Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ.
Lụt năm Tỵ
¹, dân xiêu đi quá nửa,
Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ.

Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa,
Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì.
Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm,
Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi.

Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột,
Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi.
Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất,
Cha dìu con... gục xuống, mỏn hơi rồi!

Anh em nhà lý trưởng Cời
Thừa lúc làng xiêu dân đói,
Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian,
Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói.

Tôi mười một mười hai còn đóng khố,
Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê.
Chiều hôm, bụng đói, em thì quấy,
Ngóng mẹ đường thôn kiếm gạo về.

Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói,
Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm.
Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm,
Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm.

Có thím Hợi mù loà cạnh vách
(Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)
Cứ tối tối thím kể “Bần nữ thán
²
Tỉ tê giọng oán câu hờn...

Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật
Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn
Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng
Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn...

Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt
Trộn đầy nước mắt, mưa thu
Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc
Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa

*

Mẹ tôi
Con gái làng Mai
Ai cũng phải khen rằng đẹp
Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai
Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp

Mười tám tuổi gả về xóm Núi
Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày
Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái
Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây

Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền...
Vợ chồng đôi ngả
Con sông chảy mãi về đâu?
Bóng núi đè thâm mái rạ...

Một hôm có giấy quan về
(Ngỡ thế nào kia
Ngờ đâu ra thế!)
Lý Cời qua ngõ tạt vào
Rượu vẫn còn say bí tỉ
Tờ giấy mở ra
Trắng lốp một màu tang chế
“Này chị ấy ơi
Giấy trên vừa mới chạy về
Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ
Chính phủ Lang Sa
Đền công chồng chị
Đây tấm bằng suất đội kèm theo
Chữ ký quan Tây
Triện đồng đỏ choé
Chị giữ lấy mà treo
Một bước nên bà
Sướng nhé!”
Hắn vê ria mép cười tình
Nhay nháy mắt lươn ti hí
“Này! Lo lợn gạo mà khao
Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế
Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho
Muốn trả, muốn không, tuỳ bụng chị.
Cứ ừ một tiếng là xong
Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế...
Người thế kia mà lận đận chồng con
Nghĩ thương đáo để!”
Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng
Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ
Nước mắt dài hơn người
Lòng rối như canh hẹ
Con thơ níu áo hỏi dồn:
“Ông lý cho gì hở mẹ?”

Thế là
Áo trái đường khâu
Chèn thêm chốt cửa
Bỏ ngoài tai câu ý câu tình
Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó

Giọng hát véo von
Mẹ dành để ru con ngủ
“Ạ ời ơi
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về...”
Ăn đói làm thuê
Cơm niêu nước lọ
Mẹ ở vậy nuôi con
Tháng năm vò võ...

Tôi có thằng bạn nhỏ
Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhau
Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ
³
Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu...

Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc
Có tài bắn súng cao su
Trăm phát chẳng sai một phát
Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù...

Nó mấy năm ròng lẽo đẽo
Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời
No đòn vọt mà đói cơm đói cháo
Vết lằn roi không kịp lặn trên người

Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó
Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu
Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa
Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu

Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông
Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ
Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no
Người phù thũng, da vàng như xát nghệ

Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi
Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc
Giơ lưng, lật áo cho xem
Máu chảy thành dòng
Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:

“Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi
Xó chợ, đầu đường, ra Đông
, ra Bắc
Cũng cứ liệu thôi!
Ở với nó có ngày chết mất!”
Nói rồi nó bỏ đi luôn
Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt

Nhưng ngay chiều ấy
Đinh lại quay về
Nó đứng đầu hè
Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ
“Mày ơi, nghĩ lại không đành
Đi thì yên một thân tao
Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?
Cái kiếp thằng tao
Sao mà khổ thế!
Tí nữa đây tao ló mặt về
Cầm chắc ăn đòn bội nhị”
Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi
Những trận đòn đau sắp tới:
“Thôi lại sáng mai
Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi
Bờ sông lúc nãy tớ đi qua
Sáo sậu về vô khối
Ngày mai bắt sống một con chơi
Lột lưỡi dạy cho nó nói...”

*

Tết đến, xuân về
Phây phây mưa bụi
Xanh non lá lộc nhú cành khô
Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội
Xuân vui nhà ngói nhà lim
Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi
Nhà lý trưởng Cời
Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối
Nhà tôi tết đến cũng như không
Ba nén hương đen
Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói

Xong tết bên sông làng mở hội
Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo
Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại
Vách núi ầm vang tiếng trống chèo

Ba gian đình cổ người đông nghịt
Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu
Tôi rủ Đinh chen vào góc cột
Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu

...

Hồi trống giãn trò vừa dứt
Cũng vừa gà gáy sang canh
Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh
Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh

Đò trở ngang sông
Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:
“Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời
Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!
Cũng ria mép đen thui,
Cũng mắt lươn trắng dã
Từ rày đừng gọi Lý Cời
Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!”

Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi
Tôi thường bàn tán với Đinh
Thương họ Thạch hàn vi côi cút
Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình
Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ
Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh...

Đinh vội cướp lời, kể lể
“Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế
Tao đương cắt cỏ bờ sông
Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông
Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng
Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống
Vội vàng nó hoá Trăn Tinh
Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình
Tao không sợ, tao liền hoá phép
Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt
Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng...”

Hai đứa nhìn nhay thích chí
Tưởng đâu đời sắp sướng rồi
Như họ Thạch hết hồi bĩ cực
Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngôi...

Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi
Sự thật ngày thêm cơ cực quá
Chẳng một lần được tiên cho phép lạ
Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai
Xóm Núi, làng Mai
Nghèo đói càng thêm nghèo đói
Thím Hợi hát rong không sống nổi
Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa
Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa
Đêm mưa tối vẫn kể “Bần nữ thán
Mẹ tôi da dẻ ngày đen sậm
Kỳ giở giời lưng nhức chân tê
Những hôm mưa gió dầm dề
Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo
Nghèo rớt mồng tơi
Không mua nổi chỉ kim vá áo
Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm
Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn
Mấy bận lại quay về chịu đánh
Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh
Súng cao su không bắn chết được chằn tinh
Xám ngắt ao tù
Ngày tháng quẩn quanh
Cùng đường nghẽn lối
Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi
Xây nhà tây chót vót hai tầng
Cửa sổ há ra như mồm những con trăn
Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi
Trong nhà nó cứ vui như mở hội
Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn
Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan,
Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ.
Tây với Nhật ra vào lố nhố,
Bắt phu, cướp thóc,
Nghênh ngang súng ngắn, gươm dài.
Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay,
Trời nghiêng đất lệch.

*

Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách,
Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm.
Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm
Một bát canh cần cá quả.
Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xoả.
Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum,
Đinh đánh liều lấy trộm một con,
Về nấu bát canh cho mẹ.
Trời chiều bóng xế...
Đinh múc canh, bưng đến cạnh giường,
Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn,
Không ăn được nữa.
Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở,
Bát canh rơi vỡ tan tành...

Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh,
Cuối xóm đường đi lút cỏ.
Rờn rợn mùi hương, lều tối loé lên ba chấm đỏ.
Đinh đương quỳ khấn nỉ non:
“- Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con...”
Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:
“- Tao đi thật, chuyến này, đi thật!
Tao định rủ mày, hai đứa với nhau...”
Tôi hỏi: “Đi đâu?”
Nó rằng: “Không phải hỏi,
Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội,
Thân lập lấy thân
Hai bàn tay làm lấy mà ăn,
Không để đói, không để ai đánh chửi.”

Dằng dặc trời sao chấp chới,
Gió may sương muối rét tê người.
Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời,
Dừng lại ngó toà nhà tây cao ngất.
Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát,
Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương
,
Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường.
Đinh chửi một câu, rút súng cao su, lắp đạn,
Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn,
Nghe một tiếng choang.
Một khung kính cửa vỡ tan.
Đàn chó sủa ầm, hốt hoảng,
Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng...

Trời rét.
Đêm khuya,
Đò vắng,
Cởi áo quần hai đứa lội qua sông.
Tưởng mình như hai gã tiểu đồng,
Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ.
Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!
Qua sông. Trời sắp sáng rồi.
Ngoảnh trông xóm Núi, bồi hồi,
Chắc mẹ đêm qua lại khóc.
Xóm Núi sương giăng,
Mặt trời chưa mọc.
Đó đây nghe đã rộn canh gà.

Bỏ làng đi năm bốn mươi ba.
Hai đứa mới mười sáu tuổi...

Nam Định 1961

Hoa với Rượu

Thấy rét, u tôi bọc lại mền,
Cô hàng cất rượu ủ thêm men.
Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ,
Say cả tư mùa cho khách quen.

Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi,
Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi.
Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ,
Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi.

Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà,
Người ta bắt chước chị người ta!
Ra vườn nhặt những hoa cam rụng,
Về bỏ đầy nồi cất nước hoa.

Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy,
Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau.
Hí hửng bảo nhau: Thơm đấy chứ,
Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu!

Một tối nhà Nhi có giỗ thầy
Chị Nhi cho uống rượu cay cay,
Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa
Mặt đỏ lên rồi, chếnh choáng say.

Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài
Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai
Chị Nhi cứ chế làm sao ấy
Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười.

Chị Nhi thường nói với u tôi
Hai đứa thưa bà đến đẹp đôi
U tôi liền đáp ngay như thật
Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi

Thuở ấy làm sao thật thái bình¹
Trai hiền bạn với gái đồng trinh
Đời say men rượu thơm hoa rụng
Tràn những ngây thơ ngập cảm tình

Ấy thế mà rồi cách biệt nhau
Nhà Nhi không biết chuyển đi đâu
Mình tôi giời bắt làm thi sĩ
Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu

Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh
Tôi đi dan díu với kinh thành
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới
Chuốc mãi men say rượu ái tình.

Rượu ái tình kia thành thuốc độc
Vườn trần theo bướm phấn hương bay
Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc
Hoa hết thơm rồi, rượu hết say.

Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu
Ba bốn năm rồi năm sáu năm
Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại
Men nồng gạo nếp nước hoa cam.

Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi!
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
Mộng ngát, duyên lành cũng bỏ tôi.

Chắc ở nơi nào, dưới mái tranh,
Chị em Nhi vẫn sống yên lành,
Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán.
Hồn vẫn trong mà mộng vẫn xinh.

Ngày xưa còn bé, Nhi còn đẹp
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì,
Tháng tháng, mươi mười lăm buổi chợ
Cho người thiên hạ phải say Nhi.

Xóm chị em Nhi ở mấy nhà?
Bến đò sông vắng? Chợ gần, xa?
Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ?
Vườn có trồng cam, có nở hoa?

Mơ tưởng vu vơ, lòng dối lòng
Thực ra có phải thế này không
Chị Nhi đã lấy chồng năm trước
Nhi đến năm sau lại lấy chồng?

Ước gì trên bước đường lưu lạc.
Một buổi chiều nao, lạnh gió mưa
Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ
Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa.

Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu.
Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại
Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau.

Tôi kể: U tôi đã mất rồi
Cửa nhà còn có một mình tôi...
Nhi rằng: Ngày trước u thường nói
Hai đứa mình trông đến đẹp đôi...

Chị em mới lấy chồng năm trước
Chồng chị trồng cam ở mé sông.
Em ở mình đây nhà trống trải
Trăng vàng đầy ngõ, gió mênh mông...

Như truyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng.

Rượu cất kỹ ngon, men ủ khéo
Say người, thiên hạ lại say nhau,
Chiều chiều hai đứa sang thăm chị
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu.

Chao ơi! Là mộng hay là thực?
Là thực hay là mộng bấy lâu?
Hai đứa sống bằng hoa với rượu
Sống vào trời đất, sống cho nhau.

Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi
Hoa thừa, rượu ế, ấy tình tôi,
Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng
Gặp lại nhau chi, muộn mất rồi!²

Huế 1941

Tập thơ Nước giếng thơi (1957)

Á-tế-a ca (Bài ca Châu Á)

Á Tế Á [1] năm châu là bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La [2] tìm đất,
Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
Mênh mông một dải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu duy tân,
Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
Kể đời trăm hai mươi hai,
Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa [3].
Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
Chốn kinh thành Thần Hộ [4] mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
Việc kĩ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
Dao với quạt, tán với xe,
Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể lương dân số,
Các sắc quân ước độ triệu người.
Chu vi mặt đất rộng dài,
Tính vuông Pháp lí bốn mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận kì,
Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu[5].
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu[6].
Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
Trường Kì thuyền cục mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác đĩnh[7] ai tày.
Quan quân luyện tập đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò xa,
Phú Sơn cao ngất, Tì Bà trong veo.
Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
Năm Giáp Ngọ[8] đùng đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
Đông tam tỉnh[9] thu trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
Cuộc hoà đâu bất thình lình,
Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay tàu,
Y Đằng[10] can khéo mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại giàu,
Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch[11],
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy[12].
Cõi Đông đương cuộc an nguy,
Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết phen này.
Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Li lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương lại được,
May điều đình có nước Hoa Kì.
Khéo điều hoà cuộc giải vi,
Nếu không Bỉ Đắc[13] còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
Áng liệt cường nay cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản anh tài,
Từ nay danh dự còn dài về sau.
Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá[14], theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp[15],
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giàn bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.

Tác giả

Á Tế Á ca (nghĩa là "Bài ca Châu Á"), còn có tên gọi khác là Đề tỉnh quốc dân ca (Bài ca thức tỉnh quốc dân), Nam hải bô thần ca (Bài ca của một bề tôi trốn tránh người biển Nam), là một bài thơ diễn ca yêu nước được lưu truyền tại Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Trong ba tên gọi khác nhau đã biết của bài thơ tên gọi "Á Tế Á ca" được nhiều người biết đến hơn cả. Cho đến này vẫn chưa rõ tác giả của bài thơ này là ai, người thì cho là Nguyễn Thiện Thuật, người khác thì cho là Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Dương Bá Trạc. (Đoàn Lê Giang, "Ai là tác giả đích thực của bài Á Tế Á ca," Tạp chí Văn hóa Nghệ An, truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2014)

Các truyền bản

Bài thơ này có 4 truyền bản:
  • Bản được Huỳnh Lý, Hoàng Ngọc Phách công bố lần đầu trong Sơ tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng, tập 2, NXB.Giáo dục, Hà Nội, 1959
  • Bản được Đặng Thai Mai sưu tập đưa vào công trình nổi tiếng của ông: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu TK.XX, In lần thứ nhất, NXB.Văn hóa, Hà Nội, 1961.
  • Bản của Trường Viễn đông Bác cổ mà Đặng Thai Mai dùng làm bản khảo chứng trong công trình trên.
  • Bản được Vũ Văn Sạch công bố gần đây. Bản này được lưu trữ ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia 1 – Hà Nội (Cục Lưu trữ Nhà nước), hồ sơ số 71836 phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Lập luận mà Vũ Văn Sạch đưa ra về tác giả là Phan Bội Châu cũng chưa hoàn toàn thuyết phục. Về vấn đề này, ông viết: "Bài ca được viết và gửi từ Nhật Bản về Phủ thống sứ Bắc Kỳ vào năm 1906. Phủ thống sứ đã lưu trữ lại, rồi dịch toàn bộ bài này sang tiếng Pháp. Thống sứ Bắc Kỳ là Grosleau đã ghi nhận xét: "Đây là một bài ca phê phán chế độ bảo hộ đã được lưu truyền từ năm 1906, và lúc đó cho là của Phan Bội Châu""(7) Tôi cho rằng: bài thơ được gửi từ Nhật về Phủ thống sứ Bắc Kỳ năm 1906 thì chỉ có nghĩa là bài này được sáng tác từ 1906 trở về trước chứ không nhất định là sáng tác vào năm 1906. Thứ hai: vấn đề tác giả là Phan Bội Châu chỉ được nhận định một cách rất dè dặt "lúc đó cho là của Phan Bội Châu" chứ không có bằng cứ văn bản nào thật chắc chắn. Rõ ràng tài liệu tuyên truyền bí mật thì không dễ gì tìm được tác giả, hơn nữa vì thơ tuyên truyền của Phan Bội Châu quá nổi tiếng, nên người ta dễ gán những bài thơ tuyên truyền khác đều là của ông.).

Chú thích

[1] Á Tế Á: châu Á, phiên âm từ "Asie".
[2] Âu La Ba: châu Âu, phiên âm từ "Europe".
[3] Mạc Phủ: thủ lĩnh của chư hầu thường lấn át quyền vua. Kể từ khi lập quốc đến nay có 2500 năm lịch sử và trải qua 122 đời vua cùng họ.
[4] Thần Hộ: Kobe
[5] Lưu Cầu: quần đảo Ryukyu ở phía nam Nhật Bản, nay là Okinawa.
[6] Cột đèn bể, nhà bán báo, đầy rẫy ở bến tàu (phụ đầu).
[7] Bác đĩnh: pháo thuyền nhỏ, có đặt súng đại bác.
[8] Năm 1894. Cả đoạn thơ này nói về việc tranh chấp giữaTrung-Nhật thời đó
[9] Ba tỉnh miền Đông TQ là Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
[10] Y Đằng tức Ito, thủ tướng Nhật thời đó.
[11] Chỉ Triều Tiên và Mãn Châu bị xâm chiếm.
[12] Đường xe lửa Cáp Nhĩ Tân và bến tàu thuỷ hải Sâm Uy.
[13] Bỉ Đắc: Thành phố Saint Péterbourg, thủ đô Nga. Ý câu này nói Nga có thề mất cả kinh đô
[14] bô bá: trốn tránh
[15] hạ tiệp: tiệc tượu vui mừng chiến thắng

Tâm sự

Bạn hỏi vì sao đất nước này
Ngày đêm khói lửa vẫn hăng say
Tóc tang lòng vẫn không cay đắng
Gánh nặng đường xa chẳng chuyển lay?

Có lẽ nghìn năm đã dạn dày
Anh hùng xưa để giống hôm nay
Khổ đau nhiều mới yêu thương lắm
Quen vượt trùng dương lái vững tay.

Thù bạn đời nay có khác xưa,
Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa?
Chợ trời thật giả đâu chân lý?
Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa?

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...

Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù:
Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước
Rắn, mình em chịu, có sao đâu!

Chân lý, mặt trời soi sáng mãi
Lỗi lầm âu cũng bóng mây qua
Lương tâm đều vẫn trong như ngọc
Tình nghĩa anh em lại một nhà.

Tố Hữu

Tập thơ Ra Trận (1967)

Qua nhà (Gần xa)

Cái ngày cô chưa có chồng
Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa
Lối này lắm bưởi nhiều hoa...
(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)

Một hôm thấy cô cười cười
Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng
Biết đâu, rồi chả nói chòng:
Làng mình khối đứa phải lòng mình đây!

Một năm đến lắm là ngày
Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm sao có một quãng đồng mà xa

Bờ rào cây bưởi không hoa
Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo.
Lợn không nuôi, đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thời mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.

Nguyễn Bính

Tập thơ Tâm hồn tôi (1940)
Tập thơ Nước giếng thơi (1957) có tiêu đề là Gần xa

Mưa xuân (I)

Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình.
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh.
Hình như hai má em bừng đỏ,
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn,
Em ngửa bàn tay trước mái hiên.
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh,
Thế nào anh ấy chẳng sang xem.

Em xin phép mẹ vội vàng đi,
Mẹ bảo: xem về kể mẹ nghe.
Mưa nhỏ¹ nên em không ướt áo,
Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,
Em mải tìm anh chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay đường cửi lạnh,
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chả sang,
Thế mà hôm nọ hát bên làng.
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn,
Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng².

Mình em lầm lụi trên đường về,
Có ngắn gì đâu môt dải đê!
Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt,
Lạnh lùng em tủi với đêm khuya.³

Em giận hờn anh cho đến sáng,
Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì.
“- Thưa u họ hát...” Rồi em thấy
Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi.

*

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,
Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ Hội Đặng đi ngang ngõ,
Để mẹ em rằng hát tối nay?

1936

Tập thơ Lỡ bước sang ngang, 1940
Tuyển tập Nguyễn Bính, 1986

¹ Có bản in là “Mưa bụi”.

² Chữ này có bản chép là “nhỡ nhàng” hoặc “lỡ làng”. Thực ra, ba chữ ấy không hoàn toàn tương đương nhau. Bẽ bàng là thái độ (hổ thẹn), lỡ làng là cảnh ngộ (bất đạt, bất thành một cách ngang trái, hẩm hiu). Về từ nguyên, có thể lỡ làng và nhỡ nhàng cùng gốc nghĩa. Nhưng sắc thái khác nhau gần đây có phần rõ ra: về biểu thái - lỡ làng nặng, còn nhỡ nhàng nhẹ hơn, về biểu niệm - chữ trước như là “thể hoàn thành”, nghiêng về nghĩa hoàn kết, chữ sau như là “thể chưa hoàn thành”, nghiêng về nghĩa sơ chớm. Trong tình cảnh của cô gái mới lỡ một cuộc hẹn này, chữ nhỡ nhàng nghe phải hơn chăng? Nhỡ nhàng đây sẽ là khởi đầu cho những lỡ làng về sau.

³ Có bản in là “Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”.

⁴ Khổ thơ này có ở bản in lần đầu trong tập Lỡ bước sang ngang (NXB Lê Cường, 1940), nhưng đã được tác giả bỏ đi trong những lần in sau cho hàm súc hơn.


1936

Tập thơ Lỡ bước sang ngang (1940)
Tuyển tập Nguyễn Bính, Nxb Văn học (1986)

Xóm Ngự Viên

Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự viên¹.
Giậu đổ, dây leo, suồng sã quá!
Hoa tàn, con bướm cánh nghiêng nghiêng.
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá,
Xóm vắng, rêu xanh, những lối hèn!
Khách du lần giở trang hoài cổ,
Mơ lại thời xưa xóm Ngự viên.

*

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Ðào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn,
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Ðỗ Quyên.
Ðức vua một sớm đầu xuân ấy
Lòng đẹp theo giời, dạo Ngự viên.
Cung tần, mỹ nữ, ngời son phấn,
Theo gót nhà vua nở gót sen.
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dậm,
Cung nữ đa tình, vua thiếu niên.
Một đôi công chúa đều hay chữ,
Hoàng hậu nhu mì, không biết ghen.

Ðất rộng can chi mà đổi chác,
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên?
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: Hô lai bất thượng thuyền.

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu Tôn nữ,
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên.
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Ðã giả xong rồi, nợ bút nghiên!

Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến,
Ði xem hoa nở mấy hôm liền.
Ðường hoa, má phấn tranh nhau ngó,
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên.
Thắp hương, Tôn nữ xin Giời Phật:
Phù hộ cho con được phỉ nguyền.

Lòng Trạng lâng lâng mầu phú quý,
Quả cầu nho nhỏ, bói lương duyên.
Tay ai ấy nhỉ, gieo cầu đấy ?
Nghiêng cả mùa xuân, Trạng ngước nhìn.

Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo,
Có người đêm ấy khóc giăng lên!
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc,
Chẳng Tống Trân ư, cũng Nguyễn Hiền!

*

Khách du buồn mối buồn sông núi,
Núi lở, sông bồi, cảnh biến thiên!
Ngự viên ngày trước không còn nữa,
Giờ chỉ còn tên: Xóm Ngự viên.

Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng,
Giời đem hoa cỏ giả vườn tiên!
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo,
Dân thường qua lại, lối đi quen.

Nhà cửa xúm nhau thành một xóm,
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men.
Mụ vợ Bắc Nam người tứ xứ,
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen.
Ðổi thay tình nghĩa như cơm bữa,
Khúc Hậu Ðình Hoa hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong canh vắng,
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...

Hôm nay có một người du khách,
Ở Ngự viên mà nhớ Ngự viên!

Huế, tháng 9/1941

Tập thơ Nước giếng thơi (1957)

Đề Đô Thành Nam Trang

題都城南莊

崔護



Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong

Một trời quan tái

Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa,
Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
Vảng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.

Tôi đi mãi mãi vào sơn cước
Em vuốt tua rèm cửa vọng lâu
Lá úa kinh thành rơi ngập đất
Lòng vàng hỏi vẫn nhớ thương nhau?

Có những mâm cau phủ lụa điều
Đi vào trong gió lạnh hiu hiu,
Những xe hoa cưới, sao mà đẹp!
Cửa kính huy hoàng vạt áo thêu.

Em có buồn chăng? Tôi vẫn xa
Chiều nay say nhắp chén quan hà
Bao giờ cau được tươi màu lụa?
Được đón em bằng xe kết hoa?

Thân em là liễu, dạ em tơ,
Mềm yếu bền chăng với đợi chờ?
Chua xót lòng tôi mơ ước mãi
Áo bào nguyệt bạch, ngựa kim ô!

Tôi lạnh đầu sông, giá ngọn nguồn,
Nhớ nhà thì ít, nhớ em luôn.
Chênh chênh bóng ngả, sầu lau lách
Chiều ngái hương rừng, lối nhạt son.

Đã mấy năm rồi thương mến nhau
Em còn thơ dại biết chi đâu!
Đến nay ba bảy mai đương độ
Ai đánh em bằng giá ngọc châu?

Châu ngọc làm sao hái được nhiều
Tôi là thi sĩ của thương yêu,
Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?
Với những mâm cau phủ lụa điều

Chiều nay... thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say!

Lạng Sơn, 1940

Tập thơ Nước giếng thơi, 1957

Nhớ rừng


Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. 
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Thế Lữ

(1936)

Cánh cam và Cóc tía

Mặc bộ áo xanh biếc
Cánh cam vào vườn chơi.
Màu tươi bên hoa lá,
Long lanh dưới mặt trời.

Chợt thấy anh cóc tía
Len lỏi bên luống rau
Từ chân lên tới đầu
Trời ơi bùn bê bết.

Cánh cam kêu: khiếp! khiếp!
Sao anh bẩn thế kia?
Cóc tía cười hề hề:
Anh chê ta bẩn hả?

Ta bắt sâu, bắt bọ
Cho rau tốt rau xanh
Cho hoa múa đầu cành
Cho vườn càng lộng lẫy.

Công việc ta đẹp vậy
Ta bẩn có hề chi?
Còn anh, anh làm gì?
Từ mờ sương đến tối

Anh rong chơi mê mải,
Phá nát búp cây xanh.
Dù quần đẹp áo lành
Anh vẫn là người xấu.

(nguồn: tập đọc lớp 1)

Nhị Hồ

Trăng vừa đủ sáng để gây mơ,
Gió nhịp theo đêm, không vội vàng;
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ.
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ.

Cây cỏ bình yên; khuya tĩnh mịch.
Bỗng đâu lên khúc Lạc âm thiều
Nhị hồ để bốc niềm cô tịch,
Không khóc, nhưng mà buồn hiu hiu...

Điệu ngả sang bài Mạnh Lệ Quân
Thu gồm xa vắng tự muôn đời,
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...

Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi,
Qua những sân cung rộng hải hồ.
Có phải A Phòng hay Cô Tô?
- Lá liễu dài như một nét mi

... Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang,
Cưỡi hạc một đêm bay lên trời.
Vua Trần Hậu Chúa ngắm trăng vàng,
Khúc Hậu Đình Hoa đang lên khơi.

Linh hồn lưu giữa bể du dương...
Tôi thấy xiêm nghê nổi gió lùa:
Những nàng cung nữ ước mơ vua,
Không biết bao giờ nguôi nhớ thương.

Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng.
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.

Xuân Diệu

Vô đề

无题
李商隱

相見時難別亦難
東風無力百花殘
春蠶到死絲方盡
蠟炬成灰淚始乾
曉鏡但愁雲鬢改
夜吟應覺月光寒
蓬萊此去無多路
青鳥殷勤為探看

Vô đề

Lý Thương Ẩn

Tương kiến thì nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp cự thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.

Phong Kiều Dạ Bạc

楓橋夜泊
張繼

月 落 烏 啼 霜 滿 天 
江 楓 漁 火 對 愁 眠 
姑 蘇 城 外 寒 山 寺 
夜 半 鐘 聲 到 客 船

Phong kiều dạ bạc

Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên. 
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Lương Châu Từ


涼州詞 (其一)
Lương Châu Từ (I)
王翰


葡萄美酒夜光杯
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
欲飲琵琶馬上催
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. 
醉臥沙場君莫笑
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu, 
古來征戰幾人回
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi



涼州詞 (其二)
Lương Châu Từ (II)
王翰


秦中花鳥已應闌
Tần trung hoa điểu dĩ ưng lan,
塞外風沙猶自寒
Tái ngoại phong sa do tự hàn.
夜聽胡笳折楊柳
Dạ thính Hồ già Chiết dương liễu,
教人意氣憶長安
Giao nhân ý khí ức Trường An.